Thơ

Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn


Thơ 2017....


Một ṿng quay
Dư âm ĐH 2018
Khấn nguyện
Nỗi buồn người ở lại
Mùa Thánh
Đông về...
Gọi tên đồng đội
Nhớ mày
43 năm trôi qua, 43 năm ṃn mỏi đợi chờ
Ước mơ... Phá Tam Giang
Huynh Đệ chi binh
Thu dĩ văng
Quê hương ơi…?
T́m mày …ḿnh nằm chung
Kư ức Quận Tư
Về đâu nhỉ…khi tôi chết?
Tôi sẽ chết
Một ḿnh trên căn gác
Nỗi buồn nín câm
Chùm khế ngọt
Nhiều đêm trăn trở
Hành trang bỏ dở
Chiều thu
Hoài cổ
Màu cờ
Kỷ niệm 64 năm sinh nhật BC/TQLC
Cho người yêu dấu
Cổ Thành ơi !
Tiệc khao quân
Xin đừng hỏi tôi
Gửi hồn theo gió
Chuyện lạ nước nhà
Anh hùng tử, khí hùng nào tử
Bên nầy bờ Đại Dương
Thu chờ đợi
Cổ lai chinh chiến
Nếu có thể
Chinh phụ
Tiễn bạn
Thu buồn
Hoài cảm "Lính xa nhà"
Mộng buồn
Hoài niệm
Năm mốt năm
Nhớ hè xưa
Tôi phải là tôi
Mùa hoa phượng
Gọi thầm
Thầm lặng
Ngàn năm măi t́nh chung
Phím rối
Đứng vùng lên
Nỗi buồn vong quốc
Nỗi ưu tư
Mộng tưởng
Trời mờ... mưa đêm
Mẹ
Những giọt lệ cho những tấm thẻ bài
Mày hỏi tao?
Nhớ thằng bạn cũ
Tấm h́nh rách
Kư Ức khó quên
Những dấu xuân xưa
Câu hỏi đầu xuân
Thắp lại ánh xuân
Chiến hữu của tôi
Kư ức ngày găy súng
Nhớ ngày cũ
Trả tôi về
Xuân khuất đoá măn khai
Khóc mùa xuân
Mừng Mậu Tuất, nhớ Mậu Thân
Mưa buồn
Mừng Xuân
Xuân trong tiềm thức
Nỗi đau mẹ Việt Nam
Nhạn lạc bầy
Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
T́nh sen
Mănh Hổ “Tây Đô”
Kư Ức khó quên (Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp nhớ rừng)
Khi tôi chết (Tâm sự người lính già)
T́m phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ bạn
Người lính và nỗi nhớ
Hương xưa của tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài G̣n
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nh́n đất mẹ
Nợ núi sông đă trả, chỉ c̣n nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương 1 - 2 - 3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư hoài vọng
Nhớ Phá Tam Giang
Khi cha già cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
T́nh khúc cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
D́u nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư lại đến nữa rồi
Cái chết của một tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ Xanh
Ngồi xuống đây
Hăy nhặt ǵum cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của t́nh thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng 
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đă khép

 

 

 

 

 

 


Cuối năm - Giáng Sinh: Như mới hôm qua

Captovan

“Merry Christmas & Happy New Year”. Những ngày cuối năm là lúc nói lên lời chúc mừng tốt đẹp nhất cho Đêm Giáng Sinh, chiều tất niên, sáng tân niên, khi gia đ́nh, thân hữu, đồng môn, đồng khóa, ngồi bên nhau nâng ly.

Đây cũng là lúc mọi người nhớ đến nhau, gọi tên nhau và hướng về tương lai. Nhưng cũng không khỏi ngậm ngùi với dĩ văng từ nửa thế kỷ trước. Làm sao không nhớ lại những ngày tháng khó quên của đời lính chiến, thương tiếc quá những người anh em đă ra đi!

Với tôi, những kỷ niệm quê nhà với đồng đội từ chiến trường, từ nhà tù, dù đă hơn nửa thế kỷ, vẫn như mới xẩy ra ngày hôm qua.

“Hôm Qua”:

Chiến trận cuối năm

Sáng 31/12/1964, tôi dẫn anh em Đại Đội 4, TĐ5/TQLC ra băi tập chiến thuật ở bên cạnh suối Lồ Ồ, (Dĩ An), dưới chân núi Châu Thới (Biên Ḥa), băi tập là cánh rừng thưa có nhiều mai vàng đang hé nhụy, báo hiệu mùa Xuân sắp về. Khi thực tập bài học tấn công, anh em binh sĩ lại ngụy trang bằng những cành hoa mai, việc này tuy sai với nguyên tắc ngụy trang, nhưng tôi chỉ mỉm cười.

Đang tập cho lính xung phong vào mục tiêu giả th́ tôi nghe kèn báo động từ Bộ Chỉ Huy, tôi nhận lệnh đem đại đội trở về doanh trại gấp. Tiểu Đoàn 5/TQLC súng đạn sẵn sàng ở sân cờ để tiếp viện cho đơn vị bạn. Mấy sĩ quan trung đội trưởng chúng tôi lo âu ngơ ngác nh́n nhau, nh́n vào pḥng “văn khang”, hoa rượu đă sẵn sàng trên bàn tiệc, ngoài cửa, cờ quạt cùng ḍng chữ “Cung Chúc Tân Xuân”, thay v́ phất phới bay th́ đang rung lên bần bật theo tin dữ báo về: “TĐ4/TQLC đang đụng nặng tại B́nh Giả”.

Trung Úy Dương Bửu Long*, ĐĐT/ĐĐ4, sau khi kiểm soát súng đạn xong, kéo tôi ra chỗ vắng nói nhỏ:

- TĐ4/TQLC đụng ở B́nh Giả, thiệt hại nặng lắm, Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Phó, Bác Sĩ đều tử trận cả rồi! Các ĐạiĐội trưởng làTr/Úy Huệ (K17) tử trận, Tr/Úy Toàn (K16) mất tích, chỉ c̣n Tr/ÚyTùng* và Tr/ÚyTống* (K16). Hai bạn cùng Khóa 19 của mày làTh/Úy Vơ Thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng cũng tử trận rồi!

*Các anh Long, Tùng, Tống nay cũng không c̣n nữa!

Nghe tin các bạn đồng Khóa 19/TQLC Vơ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng và BĐQ Nguyễn Thái Quan đă tử trận khiến tôi sững sờ, toàn thân tê đi. T́nh nguyện về đơn vị chiến đấu là chọn hiểm nguy, nhưng không ngờ các bạn tôi lại tử trận nhanh quá!

Chúng tôi vừa tốt nghiệp thiếu úy ngày 28/11/1964, mới hưởng xong 15 ngày phép măn khóa, cặp lon thiếu úy TQLC kim tuyến trắng tinh, chưa dính bụi trần, tưởng như vẫn c̣n hương thơm và dấu tay của người yêu, mới ra trận có 15 ngày th́ đă nhuộm máu, các bạn tôi đă hy sinh, đă trả xong nợ nước.

Nếu như ngày “Hôm Qua”, 31/12/1964 nhiều đồng đội, đồng khóa, đồng môn của tôi tử trận tại B́nh Giả, th́ ngày “Hôm Qua”: 31/12/1967, đối với tôi c̣n quái ác hơn, tôi mất đi những anh em yêu thương nhau c̣n hơn ruột thịt.

Ngày cuối năm ấy, Đại Đội 1/TĐ2 của tôi nhảy trực thăng đợt đầu xuống mục tiêu kinh Cái Thia, quận Cai Lậy, và đụng địch ngay. Đủ mọi thứ súng từ trong bờ kinh bắn ra, quân ta từ đồng ruộng lúa trống không chỗ ẩn núp nên cách duy nhất để t́m cái sống trong cái chết là nhào vô, với kinh nghiệm, Đại Đội Phó Nguyễn Quốc Chính K20VB đă chỉ huy điều quân thay cho Trung Đội Trưởng Huỳnh Vinh Quang K22VB (mới ra trường) mà phất tay ra lệnh “xung phong” thẳng vào mục tiêu. Giặc chạy tán loạn, quân ta giảm thiểu được thương vong, nhưng than ôi, tiếng Quang hét qua máy:

- Anh Cấp! Anh Chính chết rồi!

Tiếng thét ấy, dù đă hơn 50 năm, vẫn không ngừng ám ảnh tôi. Thương nhớ biết bao.

Khi anh Nguyễn Xuân Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4/TĐ2/TQLC th́ Trần Văn Hợp làm đại đội phó, c̣n Chính và tôi là trung đội trưởng. Đại đội có 4 anh em: Phúc, Hợp, Cấp, Chính. Chú em út Quốc Chính ra đi quá sớm. Và rồi, gần 8 năm sau, lúc 9 giờ sáng ngày 29/3/1975, ông anh cả Xuân Phúc cũng biến mất trong khói lửa mịt mù bên bờ biển Non Nước, c̣n Hợp th́ “tử nạn” trong ngục tù CS vào năm 1978 ở rừng núi Hoàng Liên Sơn (Bắc Việt).

“Hôm qua”: Giáng Sinh 1975 trong trại tù cộng sản.

“Hôm Qua”: 24/12/1975, trong trại tù Suối Máu, Biên Ḥa, Trần Văn Hợp kiếm đâu ra được ít vỏ và một miếng bí đỏ cỡ 3 ngón tay, kèm theo cái loon guigoz có ít nước vo gạo và chừng ¼ chén cơm nguội, hắn bảo tôi:

– Giao cho mày cái này để nấu chè, đêm nay ḿnh ăn “reveillon”.

– Đường đâu mà … chè!

– Cho tí muối thay đường, hạt muối chia hai, chia ba c̣n ngọt hơn đường, đừng cho họ biết, chờ đúng lúc có chuông nhà thờ, ḿnh gọi họ dậy cùng thưởng thức.

“Họ” là gồm các anh Đoàn Trọng Cảo* K13, Đinh Xuân Lăm* và Trần Kim Hoàng* K17. K19 có Trần Xuân Bàng*, Trần Văn Hợp* Huỳnh Văn Phú, Tô Văn Cấp. K21 có Trần Quang Duật, Doăn Thiện Niệm, Lê Xuân Sơn. Chúng tôi ở cùng trại, nằm sát bên nhau trong nhà tù Suối Máu, thương nhau, an ủi nhau nhưng không có ǵ cho nhau ngoài hai tiếng “niên trưởng.”

Và rồi, Giáng Sinh 25/12/1975. Nệm là miếng chiếu rách trải trên nền xi măng. Chăn là mảnh “poncho line”, bông g̣n không c̣n, chỉ có cái vỏ mỏng tanh.

Những giọt sương khuya tí tách, lộp độp trên mái tôn, gió rít qua khe vách.

Lạnh quá, ngủ không được, tôi nằm nghiêng, co chân, ôm đầu gối vào ḷng kiếm tí ấm th́ đụng Trần Văn Hợp, hắn giật ḿnh hỏi:

– Mày làm ǵ thế mà thúc đầu gối vào lưng tao?

– Lạnh quá, tao co đầu gối kiếm tí ấm.

Hắn im lặng, bản tính là thế. Không co bên phải nữa, tôi xoay qua bên trái, lại co, lại nghe anh Hoàng càu nhàu:

– Sao mày cứ nhúc nhích hoài vậy.

Tôi không ngủ được v́ lư do cái loon guigoz chè mà Hợp giao cho tôi nấu đă bị đổ hết rồi! Tôi treo lon chè lên đầu khúc gỗ, làm cần câu đưa lon guigoz vào ḷ nấu cơm của nhà bếp trại tù, lửa nóng quá, cháy đầu cần câu bằng thanh gỗ, lon guigoz rớt xuống đống than hồng, tôi như rơi xuống địa ngục!

“Bính boong, bính boong”: Từng hồi chuông kéo dài, rồi “Đêm Thánh Vô Cùng”, “Đêm Đông”, “Cao Cung Lên”… từ xứ đạo Kim Bịch, ở cấy số 6, Hố Nai, vút lên trời cao, vọng vào trại Suối Máu, len vào từng thớ thịt, mạch máu của những tên tù bất đắc dĩ.

Xứ đạo Kim Bịch ở cây số 6, rất gần với trại Suối Máu, ban ngày tôi trông rơ cái tháp chuông. Kim Bịch là nơi tôi đă đi tu mấy năm trời, cha bố của tôi là Linh Mục Thọ, ngài có cái đầu hói, thông minh nhưng kỷ luật vô cùng. Ngài giao cho tôi phụ trách tập hát cho ca đoàn, trong ca đoàn có cô nhỏ xinh, tên Lựu, cô hay liếc và cười duyên với thầy dậy hát. Sau lễ nửa đêm Noel năm ấy, cô bé hẹn tôi đến tháp chuông… thế là cha bố bắt gặp và tôi bị xuất tu. Chúa gọi th́ nhiều mà chọn th́ ít chứ không phải v́ tôi chọn Lựu làm người yêu.

Đêm Giáng Sinh 25/12/ 1975. Giáng Sinh đầu tiên tôi bị nhốt trong tù. Tôi nhớ gia đ́nh, và thầm hỏi không biết cô học tṛ tên Lựu ngày xa xưa có c̣n ở xứ Kim Bịch không? Tuy gần mà xa.

Tôi ngồi dậy làm dấu Thánh Gía, mở mỉệng không ra nhưng nghe trong đầu có tiếng ca: “Silent Night, HoLy Night”.

Trong bóng đêm lờ mờ, nhiều tiếng động, tôi biết có nhiều anh em đồng tù cũng đă ngồi dậy cầu kinh và hát theo những bản thánh ca.

Hợp cũng ngồi dậy từ hồi nào, chờ tôi lẩm bẩm xong bài Silent Night, hắn hỏi:

– Hát xong chưa, mang chè ra, tao gọi “họ” dậy.

– Tao làm đổ hết trong ḷ rồi, cái lon guigoz cũng cháy theo.

Hợp không nói ǵ, chỉ thở dài rồi nằm xuống. Tôi vốn là con chiên không ngoan đạo, nhưng trong hoàn cảnh khó khăn tôi tin là có Chúa. Gặp lúc hiểm nguy, người ta cầu xin cả Chúa lẫn Phật. Tôi cầu xin Chúa và bạn bè tha lỗi cho cái tội “đoảng” của tôi, nấu có lon guigoz nước vo gạo cũng không xong.

Captovan
 

 

 

 


Văn


Cách sử dụng "I" và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi & ngă" trong tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong tiếng Việt
Xưng hô tiếng Việt...



55 năm rồi mới gặp!
“Người Việt” giết tiếng Việt!
Hy sinh và mờ nhạt
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Về đây anh 2018
Một Góc Nh́n - Đại Hội Về Đây Anh 2018
Dư Âm Ngày Đại Hội 2018
Vết thương 43 năm
Happy Father’s Day - Cha ơi! Con rất hănh diện về Cha
Biệt Cách Dù tại Cổ Thành Quảng Trị năm 1972
Lỗi tại tôi
Những cấp chỉ huy đáng Kính... Có người bạn đáng “Kinh”
Nói về tuổi trẻ sau 42 năm tỵ nạn...
Chạnh ḷng tháng Tư
Cuộc t́nh 50 năm
Một cuộc cờ đệnh mệnh
Những chuyện “Phiếm” về cs Việt Nam
Cuộc tṛ chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Bạn đường
Một chuyến đi Oklahoma 
Thăm lại “Mái Nhà” xưa
Hăy kể cho tôi nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn Thành Yên
NT Hoàng Lăm
Cái chào của Niên Trưởng
Chuyến tản thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà không biết sao?
Người Y-Tá chiến trường
Thôi ! Ḿnh về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
T́m cha
Biệt đội Sóng Thần
Lăo lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời
Người lính tiên phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa Football năm nay sẽ không c̣n...
Đoàn 76 tù binh
Những con Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta 2014
Cánh Đại Bàng c̣n lại giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời lính -T́nh đồng đội
Nghĩa cử cao quư
Rũ áo thênh thang
30-4 những giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Chuyện về cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao Xuân Huy
Những ngày vui ở Nam Cali
Ḍng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ Quan TQLC/VNCH  và em bé gái mà Ông đă cứu 41 năm trước...
Những cái chết thầm lặng
Dục Mỹ, ḷ luyện thép
Người hát rong nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012 tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH. 19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 37 năm nh́n lại...
Nỗi ḷng người lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân t́nh rất đỗi mong manh
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Cao Xuân Huy - Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy “Tháng Ba găy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Ḍng sông tuổi nhỏ
Vui buồn đời lính 1 - 2 - 3 - 4 - 5
Ḍng thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến không dừng ở đây
Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái Điễu
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận An, hành quân triệt thoái
Thư t́nh viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối t́nh Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ, họ Việt Nam Cộng Ḥa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai h́nh ảnh, một cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng Ba buồn thiu, tháng Tư găy súng
Bà Mẹ Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc Trang Thủy