Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại
Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
T́nh sen
Mănh Hổ “Tây Đô”
Kư Ức khó quên
(Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Khi tôi chết
(Tâm sự người lính già)
T́m phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ
bạn
Người lính và
nỗi nhớ
Hương xưa của
tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài G̣n
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho
bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nh́n đất mẹ
Nợ núi sông đă trả, chỉ c̣n nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy
tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương
1 - 2 -
3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng
Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư
hoài vọng
Nhớ Phá Tam
Giang
Khi cha già
cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và
một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa
rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
T́nh khúc
cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
D́u nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông
Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư
lại đến nữa rồi
Cái chết của một
tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ
Xanh
Ngồi xuống đây
Hăy nhặt ǵum
cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương
lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu
Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của t́nh
thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một
thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người
lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đă khép
Lư Lô
Nơi đây cách thị xă Quảng Trị 10 cây số. Bên trái
con đường là băi cát trắng lẫn với màu đất đen. Những cụm nhà mái
tôn rải rác bên đường dưới ánh nắng gần trưa. Không một bóng người.
Bên phải con đường là băi cát vàng khô khốc, thỉnh thoảng gió thổi
thốc từng cơn, những cụm cát tung lên x̣a ra trong nắng. Một căn nhà
xập xệ chắp lại bằng những miếng tôn cũ trên đó có ḍng chữ bằng sơn
trắng “Sửa xe, vá ép”. Nơi cửa, một ông già ở trần ngồi trên bậc
thềm, tay cầm quạt lá, tay kia chống cằm nh́n bâng quơ ra con đường
nhựa vắng người.
Ngày 1 tháng 5 năm 1972, hàng vạn đồng bào từ Quảng Trị tản cư vào
Huế. Cuộc tản cư và rút lui hỗn loạn đă biến đoạn Quốc Lộ 1 ở quận
Hải Lăng thành con đường xương máu khi quân Bắc Việt phục kích và nă
pháo vào đoàn người di tản.
Bao nhiêu xác người đă nằm xuống và con đường hôm nay đ́u hiu thưa
thớt. Ai đă khiêng cất xác họ. Ai đă rửa chùi những đống máu, lau đi
những óc năo tung bay. Ai sắp lại những gan ruột phơi ra trầy trụa.
Ai đă đạp lên xác họ trên đường chạy loạn rồi gục xuống ở bước chân
kế tiếp, chồng lên người đă chết.
Bây giờ, Đại Lộ Kinh Hoàng mang tên Lê Duẩn. Tôi đang đi trên nó một
buổi sáng vắng lặng yên b́nh, nhưng chợt ớn lạnh từng cơn như vô hạn
oan hồn chồm lên quấn lấy hỏi han. Cơn gió đồng lướt thướt thổi qua.
Tôi trèo lên xe, nói chạy nhanh vào thị xă.
Tới một ngă ba, người tài xế rẽ phải vào đường Trần Hưng Đạo. Đó là
một con đường nhỏ hơn, có một chứng tích duy nhất c̣n sót lại của
thị xă Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa, trường Bồ Đề. Người ta nói số
bom đạn đổ xuống thị xă trong 81 ngày đêm, kể từ ngày 30 tháng Ba
năm 1972, có sức công phá mạnh gấp bảy lần trái bom nguyên tử thả
xuống Nhật trong thế chiến thứ hai. “Một viên gạch cũng bể làm tư,”
người Quảng Trị nói rứa. Chỉ riêng ngôi trường Bồ Đề c̣n đứng vững
với bốn bức tường lỗ chỗ vết đạn bom.
Đến một ngă tư, lại rẽ phải. Cổ Thành Quảng Trị nằm phía tay trái,
cách quốc lộ chừng hai cây số. Ở góc tường đầu tiên, rêu và cây dại
mọc dày nhưng các vết đạn xoáy sâu vào lớp gạch tường đo đỏ vẫn c̣n
hằn dấu rơ.
Tôi nhớ như in bức ảnh chụp mấy người lính cắm cờ vàng ba sọc đỏ
trên cổ thành đổ nát năm nào. Bây giờ người ta cho xây lại phần trên
cổng thành. Màu xám xi măng c̣n rất mới, có vẻ lạc lơng và chênh
vênh trên dăy tường thành cũ kỹ. Bên trong thành, một con đường bê
tông chạy thẳng từ cổng đến một cái đài cao xây theo h́nh một nấm mộ
lớn, có bốn lối đi dẫn lên đài. Giữa trung tâm đài có một lư hương
lớn, và một cái cột cao vút lên dựng bên cạnh một mái nhà mô phỏng
một cổng tam quan.
Tôi đứng trên đài cao nh́n xung quanh. Trừ các con đường nội bộ
trong thành, c̣n lại là băi cỏ xanh, các ghế đá công viên, ở một
khoảng sân người ta trưng bày một hỏa tiễn chống máy bay.
Tôi đứng lại một ḿnh. Những tường thành như có một luồng khí lạnh
tuôn ra làm sởn da. Có tài liệu nói rằng trong trận ác chiến giành
lại cổ thành, quân lực Việt Nam Cộng Hoà chết gần mười ngàn người,
bộ đội cộng sản cũng chết khoảng con số đó.
Trong cổ thành này, xác người có thể sắp bên nhau dày đặc mặt đất.
“Một viên gạch cũng bể làm tư”. Đó là một nhận xét có vẻ đơn giản
nhưng thật kinh hoàng. Mấy năm trước tôi có coi một đoạn phim tài
liệu 45 phút do “Sở Văn Hóa Thông Tin Quảng Trị” thực hiện với lời
b́nh của Vơ Nguyên Thủy, con Vơ Nguyên Giáp. Họ chiếu các mũi tiến
công của bộ đội cộng sản vào cổ thành khởi từ ngày cuối của tháng Ba
năm 1972. Những trận giao tranh ác liệt. Các cảnh máy bay B52 rải
bom. Khi bộ đội phải bỏ chạy qua bờ bắc của sông Thạch Hăn, họ b́nh
luận “quân ta tổn thất khá nặng nề”.
Các nhà quân sự cộng sản chỉ cần gây tiếng vang. Họ khát danh vọng
bất kể mười ngàn lính nằm xuống để đổi lấy 81 ngày đêm giành giật
từng tấc đất một cách tuyệt vọng. Bất kể tính mạng dân thường gục
xuống do những màn pháo kích bừa băi từ trong núi nă xuống Đại Lộ
Kinh Hoàng. Những điều đó không được nhắc đến trong cả cuốn phim tài
liệu?.
Một người bạn chụp h́nh chuyên nghiệp kể rằng vào đây mà không khấn
vái th́ khi rửa phim chỉ thấy một màu trắng xóa. Tôi tin điều đó.
Trên đài tưởng niệm có một lư hương rất lớn, nhưng lư hương đó chỉ
dành cho những người lính cộng sản. Không có một lư hương chung cho
tất cả những linh hồn vô danh lẩn khuất nơi đây, để những người sống
có thể thắp hương cầu nguyện cho tất cả.
Tôi không thể đốt hương để cắm vào cái lư hương riêng biệt này. V́
thế tôi chọn cắm một nén hương vào hư không.
Ở đây có nhà bảo tàng hai tầng. Tầng trên trưng bày các hiện vật và
h́nh ảnh các bộ đội cộng sản, sơ đồ cổ thành, mô h́nh trận đánh.
Trong ngổn ngang chiến tích, đạn, bom, và súng cối đă rỉ sét có một
cái bàn vuông nhỏ bên trên lộng kính. Phía trong mặt kính có hai lá
cờ vàng ba sọc đỏ xếp ngay ngắn, một vài món quân trang quân dụng,
và năm tấm h́nh căn cước của năm người lính Việt Nam Cộng Ḥa. Có
một mẫu giấy ghi chú đây là “chiến lợi phẩm” mà “bộ đội tịch thu
được” trong cổ thành hồi 1972. Các hiện vật ở tầng này nói chung sơ
sài, cách trưng bày lộn xộn và thiếu chuyên môn.
Rời cổ thành chúng tôi băng qua sông Thạch Hăn. Đến ngă ba rẽ vào
Đường 9 Nam Lào. Năm 1971, Việt Nam Cộng Ḥa mở cuộc hành quân Lam
Sơn 719 tấn công qua biên giới Lào để phá hủy các căn cứ của Bắc
Việt. Trục lộ hành quân chính là đường số 9 bắt đầu từ hướng cực
đông là thị trấn Đông Hà.
Tôi đă đọc nhiều tài liệu về con đường này, và giờ đây tôi đang đi
trên đường 9, bắt đầu từ thị trấn Đông Hà. Hơn 10 giờ sáng nhưng cả
thị trấn vẫn vắng vẻ như không có nhiều người. Đường 9 Nam Lào bây
giờ đă tráng nhựa và khá rộng để hai chiếc xe tải tránh nhau dễ
dàng. Con đường này sẽ qua Cam Lộ, Cà Lu, Khe Sanh, Làng Vei, Lao
Bảo cho đến biên giới Lào.
Đường 9 Nam Lào lâu nay chỉ có trong mường tượng từ kư ức qua các
tài liệu thời chiến: h́nh ảnh các cuộc chuyển quân, những người lính
gian khó, các trận đánh dữ dội, những cơn gió Lào oi bức. Có những
khúc đường hẹp phải dùng xe ủi đất mở đường, cây cối hai bên um tùm.
Bây giờ đây trước mắt tôi là một con đường buồn, một thị trấn lặng
lẽ, những căn nhà hai bên đường không đóng cửa, nh́n suốt vào trong
cũng không thấy người.
Lời của một bài hát vào năm 1972 vang lên “? Anh đă về Gio Linh, Cam
Lộ, Đông Hà?” Dưới ánh nắng trải đều dù không thấy dấu vết sót lại
của những ngày chiến tranh khốc liệt, nhưng từng vùng đất đi qua đều
gợi lên kư ức chiến tranh v́ sự nổi danh của chúng. Những cái tên
lừng lẫy, kiêu hùng như Cam Lộ, như Khe Sanh…
Bây giờ bên phải là núi, bên trái là ḍng sông Đakrông lấp lánh nắng
mai ở cây số 46 của đường 9 (tính từ đoạn bắt đầu ở thị trấn Đông
Hà). Có một cái cầu treo bắt ngang sông giữa hai đầu núi, cầu
Đakrông, đoạn đầu của Đông Trường Sơn. Bên kia cầu là đường 14A đưa
vào đèo Mạ Ơi, A Lưới, A Shau…
Đây là nơi diễn ra trận Apache Snow sáng ngày 10 tháng Năm/1969, lúc
quân đội Hoa Kỳ quyết định mở chiến dịch giải tỏa Thung Lũng A Shau
với sự tham dự của nhiều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến,Thiết Giáp,
Không Quân và Bộ Binh?.
Đă gần giữa trưa, hai bên cầu trẻ con người thiểu số tan học tung
tăng đi về hướng A Shau. Tất cả bọn chúng mặc áo quần màu đen, chân
đất, nước da đen xoắn khoẻ mạnh nhưng khuôn mặt hốc hác. Trông chúng
có vẻ ngô nghê, lạc lơng trên con đường tráng nhựa và cây cầu treo
mới khánh thành.
Ngang Khe Sanh, chúng tôi băng ngang ngă ba dẫn vào căn cứ cũ để đi
thẳng lên Lao Bảo. Khúc đường này đang xây dựng lỡ dở, bụi đỏ mờ
mịt. Nhà cửa hai bên đường nhuộm màu bụi đỏ. Nắng khô khốc tưởng
chừng cả vùng này rất khó t́m ra một giọt nước. Thỉnh thoảng có các
xe đ̣ mang bảng số Lào chạy ngược chiều chở các đoàn khách du lịch
hướng về Quảng Trị.
Đến trung tâm chợ biên giới Lao Bảo th́ trời đă đứng bóng. Đây là
một chợ biên giới gồm một khách sạn khá lớn xây sát sườn. Chợ gồm
hai khu nhà tṛn và một khu ăn uống b́nh dân. Một đứa bé chạy ra mời
ăn cơm. “Mi có chi ăn?” Thằng bé nhanh nhẩu: “Chi cũng có đủ”. Khu
ăn uống b́nh dân chỉ có hai quán bán cơm và toàn thức ăn khô. “Có
đủ” gồm ba món là cá nục kho, cá ngừ kho và cà pháo dầm nước mắm.
Như vậy cũng đủ ăn một buổi trưa biên giới và mua sắm một ít hàng
lậu tuôn từ Lào qua. Ở Lao Bảo, người bán hàng khô khan ít nói như
cái nóng của miền Trung. Cả khu chợ hàng hóa nhiều và trật tự hơn
chợ G̣, nhưng có cái không khí trầm trầm lặng lẽ.
Chúng tôi lên xe chạy ngược về con đường bụi đỏ.
Bên trái, những quả đồi nằm chịu trận dưới mặt trời bốc lửa. Đến
Làng Vei, nằm nửa đường từ đoạn Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi ngừng
xe để ngắm ḍng sông chảy dịu dàng bên dưới.
Rạng sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, bộ đội Bắc Việt có chiến xa yểm
trợ tấn công và tràn ngập trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei.
Đoạn từ Làng Vei về lại Khe Sanh bằng phẳng, bên trái có vài nương
rẫy của đồng bào thiểu số. Chúng tôi băng qua trung tâm Khe Sanh đă
quá trưa, ngôi chợ lồng vắng vẻ như cả thị trấn đều ngưng hoạt động,
đến ngă ba th́ rẽ trái vào căn cứ Khe Sanh.
Ngày 23 tháng 2 năm 1968, quân Bắc Việt pháo 1,300 quả đại bác vào
Khe Sanh trong 8 tiếng đồng hồ. Mười lính Mỹ chết.
Đường đi phi trường Tà Cơn, một phi trường quân sự của Mỹ thời
chiến, hẹp hơn đường 9, cũng đă tráng nhựa bằng phẳng. Phi trường
nằm cách đường cái chừng cây số, có cổng rào và trạm gác thu lệ phí
tham quan. Trên băi sân ngổn ngang cỏ mọc người ta trưng bày một
trực thăng UH và hai trực thăng chuồn chuồn.
Ngày 11 tháng 2 năm 1968, hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh.
Một chiếc nổ tung v́ trúng đạn pháo kích.
Gần đây, Bộ Quốc Pḥng Mỹ nói họ đă xác định được danh tánh bốn quân
nhân Mỹ chết trên đồi 665 vào đầu tháng 5/1967, và hài cốt của bốn
người lính này đă được đưa về Mỹ. Sau 37 năm nằm yên trong vùng đất
Khe Sanh, bốn quân nhân chết trong độ tuổi 20 đă trở về quê hương,
được vinh danh ở Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. C̣n những ngọn đồi
471, 552, 665, 689? th́ vẫn xanh cỏ mọc. C̣n bao nhiêu xương cốt của
Mỹ, của VNCH, của Bắc Việt Nam vùi sâu nơi ấy.
Con đường rời Khe Sanh từ hướng Tây, băng qua đèo Ai Lao để về lại
Cam Lộ trông hùng vĩ hơn. Nhiều đoạn đèo đang được thi công nâng
cấp, đất cát lổn nhổn trộn với bụi đỏ bay mịt trời. Mấy cái cần cẩu
đang nâng lên hạ xuống ở một cây cầu đang xây mới cạnh chiếc cầu cũ
bắt ngang một vực sâu, ngay một khúc quanh gắt như cùi chỏ. Đoạn
đường này hẹp, nếu có một chiếc xe đi ngược chiều th́ không biết tài
xế sẽ xoay sở ra sao.
Lấp lánh dưới sâu là ḍng nước đă gần cạn trong mùa khô. Trời trong
và xanh. Ngang một đoạn đèo gặp một đoàn người đang im lặng đi giữa
đường, dẫn đầu là một người đàn ông mặc áo dài màu xanh đậm. Ông này
xách một cái phèng la cũ, vừa đi chậm răi vừa thỉnh thoảng gơ một
tiếng “pheeng?”. Kế đến là bốn người đàn ông gánh một cái quan tài.
Một đám tang giữa trưa.
Trên quan tài có tấm h́nh của người chết, ảnh một cô gái trẻ. Những
người đưa đám đều để đầu trần, có người đi chân không trên mặt đường
nóng chảy nhựa. Bóng chiếc quan tài in xuống nền đường che nắng cho
một vài người đi khép nép ven hông quan tài. Đoàn người đi chầm chậm
trên đèo Khe Sanh – Cam Lộ. Tiếng phèng la điểm nhịp vang lên rồi
tan dần vào vách núi. Một người trẻ hôm nay sắp được chôn. Trong một
vùng đất c̣n nhiều người mất xác.
Lư Lô
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngă" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
Cuộc tṛ
chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Một chuyến đi Oklahoma
Thăm lại
“Mái Nhà” xưa
Hăy kể cho tôi
nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân
TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn
Thành Yên
NT Hoàng Lăm
Cái chào của Niên
Trưởng
Chuyến
tản
thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà
không biết sao?
Người
Y-Tá chiến trường
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
T́m cha
Biệt đội Sóng Thần
Lăo lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn
Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu
Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận
Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời
Người lính tiên
phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại
đoạn đường
Người
Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa
Football năm nay sẽ không c̣n...
Đoàn 76 tù binh
Những con
Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta
2014
Cánh Đại Bàng c̣n lại
giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời
lính -T́nh đồng đội
Nghĩa cử cao quư
Rũ áo thênh thang
30-4 những
giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết
Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Chuyện về
cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao
Xuân Huy
Những ngày vui ở
Nam Cali
Ḍng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội
Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng
yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ
Quan TQLC/VNCH và em bé gái mà Ông đă cứu 41 năm trước...
Những cái chết
thầm lặng
Dục Mỹ, ḷ luyện thép
Người hát rong
nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012
tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH.
19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 37 năm nh́n lại...
Nỗi ḷng người
lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên
đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một
thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân t́nh rất đỗi
mong manh
Người c̣n nhớ
hay người đă quên
Cao Xuân Huy -
Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy
“Tháng Ba găy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Ḍng sông tuổi
nhỏ
Vui buồn đời
lính 1 -
2 - 3
- 4 -
5
Ḍng
thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền
thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến
không dừng ở đây
Nỗi ḷng
biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái
Điễu
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận
An, hành quân triệt thoái
Thư t́nh viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng
Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hăy thắp cho
anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc
sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối t́nh Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ,
họ Việt Nam Cộng Ḥa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai h́nh ảnh, một
cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng
Ba buồn thiu, tháng Tư găy súng
Bà Mẹ
Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc
Trang Thủy