MX Kiều
Công Cự
Thật ra, Trường Vơ bị Đà lạt, từ ngày thành lập tại Mang
Cá, Huế (1948) cho đến ngày “tan hàng” (30/4/1975), đă
huấn luyện được 35 khóa với 31 khóa chính thức và 3 khóa
phụ là :
- Khóa 9 (khóa Đống Đa) : 1/9/1953 –
16/3/1954 với 120 SVSQ.
- Khóa 10 (khóa Cương Quyết) : 19/3/1954 - 1/10/1954 với
360 SVSQ.
- Khóa 11 (khóa Vương Xuân Sĩ) : 1/11/1954 – 11/11/1955
với 200 SVSQ
Ba khóa này không cùng ngày khai giảng và măn khóa với khóa chính với lư do duy nhất là họ được Trường Vơ khoa Thủ Đức gởi lên thụ huấn và ở trong qui chế là Sĩ quan trừ bị.
Riêng khóa 22 là chính khóa nhưng lại là một khóa đặc biệt. Đến cuối năm học thứ nhất, khóa 22 được chia làm 2: 173 SVSQ theo học 2 năm (22 A), chương tŕnh như các khóa trước và 92 SVSQ theo học 4 năm (22 B), cũng như các khoá tiếp theo (23, 24...), được huấn luyện theo chương tŕnh của trường Vơ bị West Point (Hoa Kỳ) và khi măn khóa được cấp phát văn bằng Cử nhân Khoa học Ứng dụng.
Tôi theo học khóa 2 năm.
Sau khi học khóa 32 Rừng- Núi- Śnh- Lầy ở Trung tâm
huấn luyện BĐQ/ Dục Mỹ về, chúng tôi được các binh
chủng, (không có Quân chủng), lên thuyết tŕnh tại nhà H
và chọn người. Phải “chen chân” lắm, tôi mới được “lọt”
vào danh sách 15/73 người được chọn về cái binh chủng mà
người ta vẫn “hù” là “sống hùng, sống mạnh nhưng sống
không lâu”. Nhằm nḥ ǵ “một xanh cỏ, hai đỏ ngực”. Sợ
ǵ, cứ thế mà tiến lên đi Tám !
Mười lăm ngày nghỉ phép ở Sài g̣n, tôi rất hạnh phúc được mẹ tôi từ Quảng Nam vào thăm và ở lại cho đến ngày mẹ cầu nguyện cho tôi lên đường b́nh an.
Chúng tôi hẹn với nhau tŕnh diện đúng ngày, đúng giờ tại Bộ Tư lệnh Lữ đoàn Thủy quân lục chiến (TQLC), số 15 đường Lê thánh Tôn, quận Nh́, Sài g̣n. Quân phục treillis, nón lưỡi trai đồng loạt, chỉ có đôi lon cầu vai màu trắng TQLC, đúng với phong cách “reglo” của các sĩ quan Đà Lạt, đến nỗi vị Trung tá Tham mưu trưởng, nghe nói là nổi tiếng “khó khăn” cũng không chê trách vào đâu được.
Một chiếc GMC đưa chúng tôi lên TTHL/TQLC tại Rừng Cấm thuộc quận Thủ Đức. Một chương tŕnh huấn luyện và thực hành về binh chủng như leo lưới, đổ bộ tàu.. và những loại vơ khí mới như M16, M79, M60.. Tại đây chúng tôi được cấp phát 3 bộ đồ “áo hoa sóng biển”. Việc này làm chúng tôi cảm động và hănh diện. Chúng tôi đă bước qua ngưỡng cửa của một binh chủng mà chúng tôi hằng ao ước được phục vụ với tất cả tâm hồn và sức lực của ḿnh.
Chúng tôi được đưa về lại BTL/LĐ và
pḥng Tổng quản trị đă phân phối đi các đơn vị :
Tiểu đoàn 1 (Quái điểu): Nguyễn Tri Nam + Nguyễn Định
Ninh.
Tiểu đoàn 2 (Trâu điên ): Huỳnh Vinh Quang + Lê Văn Lệ +
Kiều Công Cự.
Tiểu đoàn 3 (Sói biển): Giang Văn Nhân + Đào Duy Chàng.
Tiểu đoàn 4 (Ḱnh ngư): Nguyễn Minh Trí + Ngô Hữu Đức +
Nguyễn Văn Hào.
Tiểu đoàn 5 (Hắc long): Đoàn Văn Tịnh + Nguyễn Trúc
Tuyền + Dương Công Phó.
Tiểu đoàn 6 (Thần ưng cảm tử) : Nguyễn Văn Bài + Vơ Văn
Xương.
LĐ/TQLC, lúc bấy giờ, chỉ có 6 tiểu đoàn tác chiến và 2
tiểu đoàn pháo binh, được điều động về phương diện chiến
thuật bởi 2 Chiến đoàn A và Chiến đoàn B.
Về đơn vị mới :
Chúng tôi chia tay nhau, lên xe. Hậu cứ TĐ2 ở xă Tam Hà,
thuộc huyện Thủ Đức, trong một khu doanh trại khá khang
trang và rộng rải. Một căn nhà đồ sộ, hai tầng, c̣n lại
từ thời Pháp được dùng làm văn pḥng BCH/TĐ; pḥng Tiểu
đoàn trưởng và Tiểu đoàn phó ở tầng 1 và tầng 2 dành cho
các sĩ quan độc thân. Góc bên phải có dựng một hang đá
bằng giấy bồi, chưng đèn kết hoa và có những bức tượng
Chúa Hài đồng và các mục tử. Cả Tiểu đoàn đang nghỉ
dưỡng quân và sắp tới ngày Giáng Sinh nên không khí có
vẻ sôi động và vui tươi. Chúng tôi được ban I /TĐ đưa
vào tŕnh diện Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Định,
xuất thân khóa 10 phụ. Ông có cặp mắt sáng, giọng Bắc,
nói chậm nhưng mà chắc. Cả người ông toát ra một cái vẻ
“một sĩ quan của trận mạc”. Tự nhiên tôi thích con người
này. Tiểu đoàn phó là đại úy Nguyễn Kim Đễ, khóa 16 Đà
Lạt. Khuôn mặt có vẽ dữ dằn như một tay anh chị. Ông là
người bắc di cư, có một thời gian là một vơ sĩ chuyên
nghiệp, nhiều lần lên vơ đài. Năm 1972, trong trận chiến
dữ dằn nhất tại Quảng Trị, tôi được phục vụ dưới quyền
của ông tại TĐ9 (Mănh hổ) với tư cách là một đại đội
trưởng tác chiến và h́nh như có một lần ông có nói về
điều trên mà bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ. Và chính ông đă
phân phối 3 chúng tôi về các đại đội : Huỳnh Vinh Quang
ở ĐĐ1 (Trung úy Tô Văn Cấp), Lê Văn Lệ có người anh ruột
là Thiếu úy Lê Văn Thể nên được đưa về ĐĐ3 (Trung úy
Trần Văn Thương), c̣n tôi th́ về ĐĐ4 (Trung úy Trần Văn
Hợp). Anh Hợp là người chỉ huy của tôi từ ngày đầu và
những ngày sau cùng của chiến cuộc; bây giờ anh đă chết
trong trại tù VC ở Sơn La (Bắc Việt), c̣n vợ con anh
hiện định cư tại Houston (Texas). Doanh trại ĐĐ4 ở phía
tây, trong khu có nhiều cây cao bóng mát, gần ban Quân
xa TĐ.
Buổi chiều có cuộc họp tại văn pḥng Đại đội. Trung úy Phạm Văn Tiền, khóa 20 ĐL, là Đại đội phó, dân B́nh Dương, có vẻ c̣n nhỏ tuổi hơn tôi. Anh thường đeo đôi kính Rayban màu nâu đen lúc hành quân cũng như lúc dưỡng quân. Cho đến bây giờ anh vẫn c̣n giữ thói quen này. Anh thông báo cho biết Tiểu đoàn sẽ tham dự hành quân vào ngày ngày mai, ngay bây giờ các Trung đội cho tập họp nhân sự, vào kho lănh vũ khí, trang bị 2 cấp số đạn và 5 ngày lương khô. Anh Hợp đi họp về cho biết thêm : “Chiến đoàn B/TQLC gồm Tiểu đoàn 1 + Tiểu đoàn 2 + Pháo đội A/TQLC sẽ tăng phái cho Quân đoàn IV”.. Anh giới thiệu tôi với các sĩ quan trong ĐĐ: Thiếu úy Phan Ngọc Viếng (K17 TĐ) Trung đội 41, Thiếu úy Nguyễn Văn Hưởng (K17 TĐ ) Trung đội 43, Chuẩn úy Lưu Văn Phán ( K24 TĐ) Trung đội 44, Thượng sĩ Nguyễn Văn An, Thường vụ ĐĐ; rồi anh chỉ định tôi làm Trung đội trưởng Trung đội 42. Tôi hơi ngạc nhiên, v́ theo truyền thống của những đơn vị tổng trừ bị, sĩ quan mới ra trường phải đi thực tập quan sát một thời gian, người ta gọi là O.J.T (on the job training). Trung úy Tiền nh́n tôi cười thông cảm và nói nhỏ: “Yên trí ! Tôi sẽ đi theo ông.” Tôi thầm cảm ơn anh.
Đêm đầu tiên ở đơn vị, tôi cảm thấy khó ngủ nhưng không bất an. Kèn báo thức lúc 3 giờ. Những quân nhân có gia đ́nh ở trại gia binh gần đấy lần lượt kéo nhau vào. Anh Hợp cũng từ Sài g̣n mới lên. Mỗi người được lănh một ổ bánh ḿ thịt nóng hổi và một ly cà phê đen c̣n bốc khói. Như thế này th́ “sang trọng” quá rồi, có thua ǵ mấy anh chàng lính Mỹ đâu. Trung đội phó của tôi là một người Miên, cao lêu nghêu, Trung sĩ nhất Châu Sênh, 17 năm lính, đôi mắt đỏ ké và giọng nói vẫn c̣n mùi rượu. Ông sắp xếp cho tôi một “cao bồi” để mang quần áo và một “tà lọt” mang thức ăn. Tuy nhiên tôi cũng mang một chiếc ba lô nhỏ có đựng một bộ đồ trận, đồ lót, khăn mặt, kem và bàn chải đánh răng, một bao gạo sấy và một hộp thịt ba lát, nhất là một cây thuốc Ruby đỏ. Tôi c̣n “sung lắm”, định bỏ thêm một phần lương khô nữa nhưng Binh nhất Nguyễn Văn Đây không cho. Hắn đưa cho tôi một ly cà phê đen và nói ..uống đi cho tỉnh người Tthiếu úy.. Có lẽ Đây đă thoáng nh́n thấy khuôn mặt hơi lo lắng và băn khoăn của tôi.
Đoàn xe bắt đầu xuất phát. Người điều động di chuyển hôm nay là Đại úy Tiểu đoàn phó. Anh ngồi trên xe jeep có gắn 2 cần câu phía sau. Một xe quân cảnh 202 TQLC đi đầu. Khu Tam Hà như cũng thức dậy cùng đoàn người ra đi. Những người vợ lính ở trong khu gia binh lặng lẽ đứng nh́n theo. Một vài người dân đứng dọc đường vẫy tay chào. Đoàn xe đi qua khu hồ tắm Ngọc Thủy, nhà thờ Tin Lành, qua chợ Thủ Đức rồi nhập vào xa lộ Sài g̣n.. Đến ngă ba Hàng Xanh th́ quẹo phải, theo đường Chi Lăng về hướng chợ Bà Chiểu. Qua cổng chính của Bộ Tổng tham mưu rồi rẽ vào cổng Phi Long, đoàn xe dừng lại ở đoạn đầu phi đạo.
Khoảng 10 giờ sáng , ĐĐ1 của Quang lên hai chiếc C123 của Không lực Mỹ . ĐĐ của tôi đi vào đợt 2, khoảng nửa giờ sau đó. Nơi đến tôi được trung úy Tiền cho biết là phi trường Vĩnh Long, ở phía nam của bến phà Mỹ Thuận. Tôi nghĩ từ Sài G̣n xuống Vĩnh Long đâu có xa ǵ mà phải dùng không vận, chắc quốc lộ 4 không được an ninh trên khoảng đường này.
Chúng tôi tạm đóng quân trong làng Tân Ngăi thuộc quận Châu Thành và sẳn sàng được trực thăng vận vào vùng hành quân ngày mai. Buổi chiều lănh bản đồ và phóng đồ hành quân. Băi đổ ( landing zone ) của các cánh quân là những cánh đồng ngập nước, dọc theo những kinh rạch chằn chịt, những xóm làng thưa thớt, không biết có c̣n dân hay không ? T́nh h́nh địch được cho biết trong vùng là hai tiểu đoàn 261 và 262 chủ lực miền, từ những căn cứ bên Cambodia vượt biên giới qua Mộc Hóa ( Kiến Tường ) đang tiến về vùng Giáo Đức, Định Tường, nhằm cắt đứt đoạn giao thông huyết mạch trên quốc lộ 4 và sẳn sàng uy hiếp quận Cai Lậy trong dịp tết Mậu Thân ( 2/1968 ) sắp tới.
Hôm sau khoảng 8 giờ sáng, quân cảnh 202/TQLC chận một đoạn đường dài khoảng 1 Km trên quốc lộ 4 dùng làm băi đáp cho một đoàn 15 trực thăng UH1B từ căn cứ Đồng Tâm ( Mỹ Tho ) bay tới. Cánh B gồm ĐĐ1 và ĐĐ4 do đại úy Đễ điều động được đổ đầu vào vùng hành quân. Bài học “ Hành quân trực thăng vận” đă được thực tập tại băi chiến thuật ở Trường bây giờ có nhiều điều khác xa với thực tế hành quân. Đêm qua tôi đă suy nghĩ đến việc điều động trung đội khi đặt chân xuống băi đáp. Nhưng những người lính TQLC đă quá quen với những lần chiến trận, với nhiều cuộc đổ bộ trực thăng, nên khi c̣n cách mặt đất khoảng 2m, họ đă tự động nhảy xuống , tự động dàn hàng ngang tác xạ, tiến vào mục tiêu phía trước. Tôi c̣n đang đứng tần ngần trong đám ruộng sâu đến thắt lưng th́ người mang máy PRC10, hạ sĩ Lê Văn Sung, kéo tôi chạy về phía trước. Cũng may không có pháo kích và tấn công của địch tại băi đáp nên cả trung đội tiến vào rặng trâm bầu đầy đủ và an toàn. Trung úy Tiền cùng hai người mang máy cũng đang chạy phía sau tôi. Trung đội được lệnh tiến dọc bờ kinh về phía bắc. Cả tiểu đoàn cùng tiến theo bờ kinh Tổng đốc Lộc , ranh giới giữa hai tỉnh Kiến Phong và Định Tường. Sau 3 ngày quần nát trong khu vực nhưng không chạm địch ngoại trừ một vài tên du kích. Buổi sáng 31/12/1967, tiểu đoàn được lệnh chuyển ra băi đất trống để được trực thăng vận tiếp theo. Tin tức t́nh báo cho biết là hai tiểu đoàn VC đang ém quân trong vùng đă bị phi cơ quan sát L19 phát hiện .
Cánh B gồm ĐĐ1 và ĐĐ3 đổ xuống phía
tây của ấp Mỹ Nghĩa, tiến chiếm bờ tây của kinh Xẽo
Triện, mục tiêu A là ngă 3 kinh Rạch Muôn và kinh Cái
Thia. ĐĐ1 vừa nhảy xuống đă chạm địch với trung đội 14
của Quang có trung úy ĐĐ phó Nguyễn Quốc Chính ( K20 ĐL
) đi theo. Anh Chính đội một chiếc nón bo, mang cập lon
cầu vai trắng c̣n mới, lấp lánh bạc. Anh lănh nguyên một
băng AK47 và ngă quị về phía sau ; khuôn mặt đầy máu và
hai con mắt vẫn c̣n chớp chớp. Quang vội đở hai vai của
anh và bảo một binh sĩ gần đó phụ đưa anh Chính về phía
sau nhưng anh Chính đă chết mà không có một lời trối
trăn. Anh vừa hứa hôn với cô Lựu; trong một câu chuyện
t́nh thật đẹp mà anh Huỳnh Văn Phú, một nhà văn của TQLC
, đă ghi lại trong câu chuyện : Những buổi sáng của Lựu
: “ Lựu không hề thấy t́nh yêu của nàng dành cho Chính
như một làn khói mỏng nhưng sao nàng lại sợ nó tan biến
đi khỏi tâm hồn, kư ức nàng ? Không cùng trở về được
khởi điểm của yêu thương th́ cũng đừng nên ngoảnh
mặt..”Cũng trong lần đổ quân tiếp theo của ĐĐ3, thiếu úy
Lê Văn Thể bị thương vào cánh tay phải, Lê Văn Lệ lên
nắm trung đội thế anh ḿnh . Và buổi chiều khi xung
phong tiến chiếm bờ kinh Xẽo Triện, Lệ cũng bị thương
vào cả hai chân. Hai anh em được tản thương về Tổng y
viện Cộng Ḥa và gặp Nguyễn văn An, thủ khoa Khóa 22A,
thuộc TĐ8 Dù cũng bị thương khá nặng khi đơn vị này tấn
công vào hăng dệt Vinatexco ( Bà Quẹo ), nơi VC đă đặt
BCH trung đoàn 271 đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất. Thể
phải cưa tay trái, giải ngũ và trở lại nghề dạy học. C̣n
Lệ sau một thời gian điều trị, được đưa về làm việc tại
Hậu cứ TĐ2, sau đó anh ra Hội đồng y khoa và giải ngũ
với mức độ tàn phế 70%. An và Lệ cũng như nhiều anh em
khác của khóa đă giả từ binh nghiệp trong một thời gian
sớm quá. Có lẽ đây là nỗi buồn phiền hay một mặc căm nào
đó mà họ ít khi giao thiệp với anh em cùng khóa. Thôi
th́ cũng xin tôn trọng những cái riêng tư của bạn bè.
Đêm hưu chiến trên kinh Cái Thia :
Cánh A đổ xuống phía bắc của kinh Cái Thia. BCH/TĐ và
ĐĐ2 của đại úy Đinh Xuân Lăm ( K17 ĐL ) đổ xuống ấp Địa
Kế, bờ đông của con kinh, c̣n ĐĐ4 đổ xuống ấp Lợi Thuận,
bờ tây của con kinh. Hai cánh quân tiến song song về
phía nam.
Trung đội của tôi đi đầu. V́ di chuyển quá nhanh nên khi đến ấp Lợi Trinh, cách mục tiêu B khoảng 500m th́ bị VC từ bờ đông con kinh bắn sang làm bị thương mấy người. ĐĐ phải dừng lại đợi ĐĐ2 lên ngang hàng. Đó là bài học đầu tiên của tôi về vấn đề di chuyển ; phải có an ninh ở hai cánh và phải di chuyển song song để sẳn sàng yểm trợ cho nhau.
Trời về chiều, cánh B đă chiếm được mục tiêu A và đóng quân đêm tại đây. Cánh A cũng đóng quân tại mục tiêu B. VC đang hiện diện ở khoảng giữa của hai mục tiêu, nơi con kinh Cái Thia đổ nước về hướng đông.
Đến 6 giờ chiều th́ lệnh Hưu chiến
trong ngày đầu năm Dương lịch ( 1/1/1968 ) có hiệu lực
nên mọi phi vụ yểm trợ của không quân Mỹ đều ngưng lại,
chỉ có pháo đội A/TQLC của đại úy Đoàn Trọng Cảo ( K13
ĐL ) vẫn c̣n tiếp tục cho những tiền sát viên điều chỉnh
những tác xạ tiên liệu. Phe ta không tin tưởng vào cái
lệnh hưu chiến của vẹm.Đúng vậy, khoảng 11 giờ đêm,
những đợt pháo kích bằng súng cối 82 và 61 từ hướng bắc,
rồi những đợt tấn công bằng B40 và B41 bắn thẳng vào vị
trí pḥng thủ của ĐĐ2 và ĐĐCH của trung úy Chung Văn
Nghiêm. Đặc công VC đội lục b́nh men theo từ bờ tây của
con kinh Cái Thia tấn công thẳng vào BCH/TĐ. Có lúc bọn
chúng đă vào cách chiếc vơng của cố vấn Mỹ và thiếu tá
Định khoảng 4, 5 m. Khi hỏa châu tỏa sáng, trung đội
biệt kích của TĐ đă nhận diện ra bọn chúng và bắn hạ gần
hết. VC c̣n tiếp tục mở những đợt tấn công vào vị trí
của trung đội 2 thuộc ĐĐ2 của thiếu úy Lưu Bách Việt
(K19 TĐ ), bị tấn công nặng nề nhất và có nguy cơ bị
chọc thủng. Thiếu tá Định ra lệnh cho trung đội súng cối
của TĐ tăng cường. Số thương vong của trung đội lên khá
cao và thiếu úy Việt đă hy sinh. Quân ta đă giữ vững
tuyến pḥng thủ và ĐĐ4 được lệnh đánh từ bắc xuống nam
để giải tỏa áp lực. Một đêm ḅ, trườn, rượt đuổi VC qua
những con mương, con rạch, những đám ruộng ngập nước
nhưng có lẽ đáng sợ nhất là phải nằm yên tại những điểm
phục kích và chờ những con đỉa trâu, đỉa đói đến tấn
công. Sau này tôi cũng được nghe kể lại, ngay đêm đó,
trung tá Tôn thất Soạn, chiến đoàn trưởng chiến đoàn B,
đă điều động TĐ1 của thiếu tá Phan Văn Thắng, tiến dọc
theo kinh Cổ C̣ và kinh Cùng để chận bắt những tên VC
c̣n sống sót đang t́m cách thoát về phía tây, nhất là
tại rạch Mương Đào. Và TĐ 1 báo cáo đă bắt được mấy ghe
xuồng chở đầy vũ khí và đạn dược c̣n mới nguyên trong
những bọc giấy nhựa. Xác địch nằm rải rác trên những bờ
kinh, con mương, ngay tại hàng rào pḥng thủ. Lục soát
trên người của những tên đặc công, ngoài những bê ta và
lựu đạn chúng đeo ở thắc lưng, trên cổ của chúng có đeo
những khăn quàng màu đỏ ; có lẽ cấp chỉ huy muốn kích
thích những hành động quyết tử hay để dễ bề nhận diện
trong đêm tối. Kiểm chứng lại ta thấy lực lượng tấn công
là TĐ chủ lực 261 và những trung đội đặc công.
Trưa ngày 1/1/1968, sau khi tải thương những thương binh
và tử sĩ, TĐ1 và TĐ2 được lệnh di chuyển lục soát và tập
trung trên quốc lộ 4; TĐ1 được một đoàn GMC chở về đóng
quân tại xă B́nh Phú trên rạch Bà Tồn và TĐ2 được đưa về
Cai Lậy để nghỉ ngơi và bổ sung. Thiếu tướng Nguyễn văn
Mạnh, tư lệnh Quân đoàn IV và chuẩn tướng Nguyễn Viết
Thanh, tư lệnh SĐ7/BB đến xem triển lăm chiến lợi phẩm
và gắn huy chương, cấp bậc cho quân nhân các cấp tại
BCH/CĐ B đóng tại chi khu Giáo Đức.
Trung úy Trần Văn Hợp được lệnh về tŕnh diện BTL/LĐ/TQLC để theo học khóa “ Basic Marine” ở Quantico, Virginia ; trung úy Vũ Đoàn Dzoan, vừa đi học khóa trên trở về, đang làm ĐĐ phó ĐĐ2, về nhận ĐĐ4.
Sau chiến thắng trên kinh Cái Thia trong đêm hưu chiến, chiến đoàn B vẫn tiếp tục tăng phái cho SĐ7/BB. Vùng hành quân gồm các quận Giáo Đức, Cái Bè, Cai Lậy thuộc tỉnh Định Tường. Không có những đụng độ lớn. Rồi Chiến đoàn ra nghỉ quân dọc theo quốc lộ 4 từ Giáo Đức đến Cai Lậy. Những ngày giáp Tết, BCH/chiến đoàn B và TĐ2 dừng quân ở Cai Lậy, dọc theo hai bên cây cầu đôi và hai đầu sông Ba Rài. TĐ1 đóng ở B́nh Phú trên rạch Bà Tồn, cách Cai Lậy khoảng 7 Km về hướng Giáo Đức. Thiếu tướng tư lệnh TQLC Lê nguyên Khang có đến thăm anh em ớ Chiến đoàn và dặn ḍ mọi người cẩn thận đề pḥng những âm mưu tráo trở của VC trong dịp hưu chiến nhân 3 ngày Tết Mậu thân, những ngày lễ tết linh thiêng của Dân tộc.
Hai toán quân cảnh 202 do chuẩn úy Lê
văn Nuôi chỉ huy cho đặt hai trạm kiểm soát ở hai đầu
quốc lộ để bảo đảm quân số 100% tại đơn vị.
Tại B́nh Phú, nhằm hổ trợ cho cuộc chuyển quân của tiểu
đoàn Tây Đô 514, tiểu đoàn chủ lực miền 263 đă lợi dụng
những người dân về quê ăn tết và những ghe xuồng tấp nập
trên những kinh rạch Bà Tồn, nhộn nhịp buôn bán, VC đă
xâm nhập vào các vị trí của các ĐĐ thuộc TĐ1/TQLC. Nhưng
âm mưu của chúng đă bị phát giác kịp thời bởi trung úy
Tôn Thất Trân ( K20 ĐL ) và thiếu úy Nguyễn Tri Nam (
K22 ĐL ). Trước tiên là một cuộc xô xác bằng tay chân và
sau đó là một trận cận chiến đă xảy ra ác liệt. Toàn bộ
quân nhân TĐ1 đă được báo động và phản ứng kịp thời. VC
đă bỏ chạy, một số nhảy lên những chiếc xuồng, một số
nhảy lên những chiếc xe đ̣ đang chạy qua nhưng đa số bị
bắt và bị bắn hạ tại chỗ. Nguyễn tri Nam đă bị thương
khá nặng trong trận này. Thái độ cảnh giác và sự chiến
đấu dũng cảm của niên trưởng Trân và Nam đă gây một ấn
tượng hết sức tốt đẹp cho những sĩ quan xuất thân từ
trường vơ bị. Sau những ngày chữa trị vết thương, Nam
được tham dự khóa học Basic Marine ở Mỹ, là người duy
nhất của khóa được tham dự khóa này. Khi trở về nước,
được thuyên chuyển về TTHL/TQLC ở Thủ Đức cho đến những
ngày sau Ngưng bắn 27/1/1973, Nam được đưa về làm Trưởng
ban 3/TĐ4 với thiếu tá Nguyễn Đằng Tống. Sau đó được
thăng cấp thiếu tá và được chỉ định chức vụ TĐphó /TĐ4.
Những người c̣n sống sót của K22, kể cả 7 sĩ quan K22B
về SĐ/TQLC tháng 12/1969, chưa có người nào có cấp bậc
và chức vụ này. Những ngày bi thảm sau cùng của Quân
đoàn I, trong cuộc triệt thoái của Lữ đoàn 147/TQLC gồm
các TĐ 3,4,5,7 và 2PB tại băi biển Thuận An, Huế, Nam đă
bị bắn tử thương cùng với đại úy Tô Thanh Chiêu, trong
lúc đi rải quân pḥng thủ. Theo lời kể lại của TQLC y sĩ
đại úy Phạm Vũ Bằng th́ xác của Nam và Chiêu được đưa
xuống tàu và chính anh đem hai tử thi này và nhiều quân
nhân TQLC khác vào nhà xác của Tổng y viện Duy Tân (Đà
Nẳng ) trong những ngày biến động 29/3/1975 của Quân
đoàn I. Nam đă để lại một người mẹ già và người vợ trẻ
Dương thị Xuân Thu tại Sài G̣n. Chị Thu vẫn c̣n sinh
hoạt với những anh em K22 tại quê nhà.
Trận chiến Tết Mậu thân tại Sài G̣n .
Đợt 1 ( 31/1 - 17/2/1968 ) :
Đêm giao thừa của Tết Mậu Thân (30/1/1968 ) tại Cai Lậy
và B́nh Phú hoàn toàn yên tĩnh v́ Chiến đoàn B/TQLC với
2 tiểu đoàn 1 và 2 đang đóng quân tại đây. Nhưng HCM đă
đọc ám hiệu mở đầu “ tổng công kích và tổng nổi dậy”
bằng lời chúc tết trên đài phát thanh Hà Nội :
Xuân này hơn
hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà,
Nam bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.
Đầu tiên, VC đă mở cuộc tấn công đồng loạt vào 5 thị xă thuộc Vùng II chiến thuật : Nha Trang ( 0giờ30 ), Darlac ( 1giờ 30 ), Kontum ( 2giờ 00 ), Qui Nhơn ( 4 giờ 10 ) và Pleiku ( 4 giờ 40 ), tấn công vào thị xă Hội An ( tỉnh lỵ Quảng Nam ) lúc 3 giờ 00 và đột nhập vào BTL/ Quân đoàn I lúc 3 giờ 40. Đó là những nơi khai hỏa đầu tiên của mặt trận B3 và quân khu 5 VC.
Khoảng 1 giờ sáng, thiếu tá Đỗ Kỳ,
trưởng pḥng 3/ LĐ/TQLC đă sử dụng máy ANGRC106 thông
báo với trung tá Tôn Thất Soạn t́nh h́nh tổng quát và
cho biết : “ VC đă vi phạm lệnh hưu chiến và đă tấn công
vào một số thị xă và tỉnh lỵ trên toàn quốc.Chiến đoàn B
chuẩn bị và sẽ được bốc về Sài G̣n vào ngày mai.”
Lữ đoàn TQLC với cuộc chiến Tết Mậu thân ở Sài g̣n :
Chiến đoàn A/TQLC :
Những ngày cuối năm 1967, chiến đoàn A/TQLC ( thiếu tá Hoàng tích Thông ) cùng với các TĐ3 ( thiếu tá Nguyễn Năng Bảo) + TĐ5 ( thiếu tá Phạm Nhă ) và TĐ 6 ( thiếu tá Phạm văn Chung ) đang tăng phái cho SĐ22/BB của tướng Nguyễn văn Hiếu, đóng tại núi Bà Di ( Qui Nhơn ). Chiến đoàn tham dự những cuộc hành quân tại các vùng Bồng Sơn, Phù Cũ, Dương Liễu, Tam Quan giáp ranh với huyện Hoài Ân ( Quảng Ngăi ). T́nh h́nh tương đối nhẹ, chỉ có những hoạt động của các đơn vị địa phương VC và du kích nên chiến đoàn A cũng được thảnh thơi đôi chút và chuẩn bị ăn Tết Mậu thân ngay tại vị trí đóng quân.
Đúng vào buổi sáng ngày mồng một Tết ( 31/1/1968 ), chiến đoàn nhận được lệnh của SĐ 22 cấp tốc di chuyển về Qui Nhơn v́ cộng quân đă đột nhập vào thành phố, đánh chiếm đài phát thanh và vài cơ sở lân cận. Khi chiến đoàn về đến gần BTL/SĐ th́ được lệnh dừng lại v́ một đơn vị của SĐ Mănh hổ Đại Hàn đang hoạt động ở vùng Phù Cát đă can thiệp và giải tỏa một cách nhanh chóng.
Buổi trưa chiến đoàn được lệnh di chuyển về sân bay Qui Nhơn để được không vận về Sài G̣n. Riêng TĐ6 được lệnh không vận về giải tỏa thành phố Đà lạt đang bị VC đánh chiếm. Nhưng khi đến phi trường quân sự Cam Ly th́ bị pḥng không địch bắn lên, không đáp được phải bay về Tuy Ḥa và tại đây TĐ nhận được lệnh bay về Tân sơn nhất. BCH/Chiến đoàn cùng TĐ3 và TĐ5 cũng được lệnh bay về Sài G̣n.
TĐ6 sau đó được lệnh giải tỏa thị trấn Thủ Đức, TĐ5 xuất phát từ phi trường hướng về ngă tư Bảy Hiền, đường Lư Thường Kiệt, trường Nữ quân nhân và chợ Tân B́nh, TĐ3 về đóng quân ở trường tiểu học Hoàng Thụy Năm, di chuyển giải tỏa vùng Lê Văn Duyệt, biệt khu Thủ đô, các đường Nguyễn Thông, Hoàng Đạo và nhà ga Sài G̣n.
Khi t́nh h́nh ở Sài G̣n tạm yên, chiến đoàn A gồm các TĐ1+4+5, được không vận tăng cường mặt trận Huế đang đến hồi quyết liệt nhất.
Chiến đoàn B/TQLC :
Buổi chiều ngày mồng 2 Tết ( 1/2/1968 ), chiến đoàn B/TQLC đang từ vùng hành quân Cai Lậy, B́nh Phú được các chiếc trực thăng chinook CH46 và CH53 của Mỹ đổ xuống sân cờ của Bộ TTM. Thứ tự đổ quân gồm TĐ2, BCH/CĐ và TĐ1 cùng một địa điểm.
Tiểu đoàn 4/TQLC đang nghỉ dưỡng quân tại Hậu cứ ( Vũng Tàu ), được lệnh gom quân tức tốc di chuyển . Những chiếc C130 của không lực Mỹ mang TĐ4 quần trên bầu trời Sài G̣n vào lúc 9 giờ sáng ngày mồng 2 Tết , nhưng phi công nhận được lệnh đáp xuống phi trường Biên Ḥa. Đổ quân rồi chờ đợi tại đây. Rồi lại lên máy bay, lần này đáp xuống phi trường Tân sơn nhất trong bầu không khí chiến tranh. Đảo chánh hay VC tấn công? Chưa có câu trả lời. Đại úy tiểu đoàn trưởng Đỗ Đ́nh Vượng nhận được lệnh giải tỏa cổng xe lửa số 4. Qua khỏi bệnh viện Cơ đốc phục lâm, quẹo trái theo đường Vơ Di Nguy, VC đang có mặt tại đây..Cái xác của một quân nhân Mỹ vẫn c̣n. V́ di chuyển quá gấp nên trưởng ban 4/TĐ, đại úy Nguyễn Văn Nhiều chưa kịp mua thực phẩm, cả TĐ ..đang đói meo, được bà con vùng Phú Nhuận mang đồ ăn đến tiếp tế.
Sau hai giờ quần thảo với địch trong thành phố, TĐ4 nhận được lệnh rời khu vực, di chuyển qua Trung tâm tiếp huyết, đến G̣ Vấp và sát nhập vào chiến đoàn B.
Hôm sau, TĐ1, được tăng phái một chi đội M41, vượt tuyến xuất phát ở phía bắc chi khu và tiến chiếm thành Cổ Loa nơi đặt BCH/pháo binh của QL/VNCH tại G̣ vấp. TĐ1 Củ Chi VC đă tràn vào căn cứ và đă chiếm được 12 khẩu pháo 105 ly c̣n nguyên vẹn . Nhưng bọn chúng đă không xử dụng được những khẩu pháo này bởi v́ trước khi rút khỏi căn cứ những pháo thủ của ta đă mở những bộ phận kích hỏa mang theo. TĐ1 đă chiếm lại với 12 khẩu pháo c̣n nguyên .
Cũng cách đó một khoảng ngắn, đêm trước , một TĐ thuộc trung đoàn 101 / sư đoàn 7 VC đă tấn công và chiếm được nơi đặt BCH/Thiết giáp. Mục đích của việc chiếm giữ này, theo như huấn thị 16 của trung ương cục miền Nam là sử dụng những chiếc xe này để yểm trợ cho những cuộc tấn công. Nhưng tại đây chúng không t́m thấy một chiếc thiết giáp nào; “ bị hố nặng”, chúng lấy làm tức giận và tràn qua khu cư xá sĩ quan kế cận, bắt đầu mở cuộc tàn sát trong đó có gia đ́nh của trung tá Nguyễn Tuấn và vợ là bà Từ thị Như Tùng cùng 7 người con trong đó có các em bé mới 6,4,2 tuổi. Những quân nhân của TĐ4/TQLC sau khi thanh toán mục tiêu và đă không cầm được nước mắt trước cảnh tàn sát dă man của những vật - người này.
Tôi đă đi lang bang quá nhiều ! Bây
giờ xin trở về tŕnh diện TĐ2/TQLC .
Thiếu úy Huỳnh Vinh Quang vẫn c̣n hào hứng kể lại, 42
năm về trước, khi ĐĐ1 đổ đầu xuống sân cờ của bộ TTM,
th́ anh là người được hân hạnh đứng trên cái ô vuông có
sơn màu trắng nơi mà đại tướng Cao Văn Viên đứng đây chủ
tọa buổi lễ chào cờ vào ngày thứ hai đầu tuần. Cả TĐ
được lệnh đóng quân dọc theo bờ tường thành của bộ TTM,
bảo vệ những cao ốc , những căn nhà của các sĩ quan cao
cấp. Tôi không biết BCH/TĐ đang đóng ở đâu nhưng trung
đội 42 của tôi được ĐĐ trưởng Vũ Đoàn Dzoan giao nhiệm
vụ bảo vệ cổng chính của bộ TTM. Chiếc cổng khá đồ sộ,
được đúc bằng bê tông cốt sắt mang một dáng vẽ uy nghi
và bề thế, biểu tượng cho một nơi quyền lực nhất của
Quân lực VNCH.
Mặc dầu những con ngựa kẽm gai đă bít kín bề ngang của
chiếc cổng, người ta cũng mang đến cho tôi những thùng
ḿn claymore để những người lính của trung đội đặt trên
những cao điểm, những vị trí tiến sát..Tăng cường cho
trung đội c̣n có những toán an ninh quân đội và những
toán quân cảnh. Những anh chàng này bây giờ tỏ ra rất
thân thiện, chứ không phải những ngày “ lính thủy đánh
bộ” về phép ở Sài G̣n bị họ soi mói coi đă bỏ áo vào
quần chưa, đă gom ống quần chưa..nhất là cái giấy phép
phải xuất tŕnh nghiêm chỉnh , nếu ú ớ là bị hốt ngay về
trại Lê Văn Duyệt, biệt khu Thủ đô.
Đêm qua đi an toàn, chỉ có những tiếng súng nổ ở xa và hỏa châu th́ thắp sáng cả đêm trên bầu trời Sài G̣n. Buổi sáng, TĐ nhận được lệnh di chuyển và lục soát đến tận cổng số 4 trên đường Vơ Di Nguy, Phú Nhuận. Không tham dự vào những mục tiêu như trường Sinh ngữ quân đội, trường Tổng quản trị, .. v́ đă có những đơn vị của TĐ8 Dù trách nhiệm. TĐ được lệnh tăng phái cho Tổng nha Cảnh sát trên đường Vơ Tánh.
Được biết TĐ508 Long An VC đă xâm nhập vào xứ đạo B́nh An và đang tiếp tục tiến vào quân 6. TĐ3 thuộc trung đoàn Đồng Tháp đă xuất hiện ở bến Lê quang Liêm. TĐ 3 B́nh Tân đang chiếm vào khu Bà Hạt, Vĩnh Viễn. Bọn chúng thường chiếm những ngôi chùa và những bệnh viện để đặt BCH điều khiển những cuộc tấn công đẩm máu trong thành phố. TĐ đă phân chia trách nhiệm cho các ĐĐ như sau :
- ĐĐ1 ( tr/u Tô Văn Cấp ) : khu vực
Trần Nhân Tôn và đường Minh Mạng ( quận 10 ).
- ĐĐ2 (đ/u Trần Kim Đệ ) : trách nhiệm từ cầu chữ Y ra
tới Phú Định.
- ĐĐ3 ( tr/u Trần Văn Thương ) : hăng rượu B́nh Tây và
bến Lê Quang Liêm.
- ĐĐ4 ( tr/u Vũ Đoàn Dzoan ) : chùa Ấn Quang và khu
Nguyễn Duy Dương, Bà hạt.
Trận đánh vào chùa Ấn Quang ( mồng 4 Tết :
3/2/1968 )
Chùa Ấn Quang nằm trên đường Sư Vạn Hạnh, quận 10. Một ngôi chùa đồ sộ tọa lạc trong ô vuông của 4 con đường Bà Hạt ( bắc ), Vĩnh Viễn ( nam ), Nguyễn Duy Dương ( tây ), sư Vạn Hạnh (Đông ); cũng ở phía nam là đại lộ Minh Mạng dẫn đến bồn binh Ngă Sáu Sài G̣n.
Sáng ngày mồng 4 Tết, TĐ2/TQLC tiến
vào khu vực Quận 10 và Chợ Lớn để thay thế TĐ 38/BĐQ
(thiếu tá Nguyễn Văn Bằng ) được chuyển lên khu vực ngă
ba Hàng Xanh, cầu Sơn và TĐ33 /BĐQ (đại úy Nguyễn Văn
Thiệt có ám danh truyền tin là Tử thần ) được gởi tới
mặt trận B́nh An, quận 7, vừa mới khởi phát.
Chùa Ấn Quang là một ngôi chùa khá nổi tiếng với những
vụ xuống đường năm 1963 và 1966, đă được TĐ6 B́nh –Tân
và TĐ đặc công thành C-10 đặt BCH ở đây. ĐĐ4 được đổ
quân xuống tại ngă 6 Sài G̣n, theo 2 đường Minh Mạng và
Lư Thái Tổ bao vây 4 mặt của chùa Ấn Quang. Trung đội 42
của tôi chịu trách nhiệm án ngữ tại ngă tư Nguyễn Duy
Dương – Bà Hạt và dọc mặt sau của chùa là đường Nguyễn
Duy Dương. Trung đội 43 của thiếu úy Lưu văn Phán bố trí
theo đường Vĩnh Viễn; trung đội 41 của thiếu úy Phan
Ngọc Viếng, không thể tiến sát đến mặt tiền của ngôi
chùa v́ những ngôi nhà phía trước, chạy dài đến đường
Minh Mạng đă bị hỏa tiển từ trực thăng bắn xuống và VC
đă nhân cơ hội đó đă đốt khu vực này lên đến khu chợ
Thiếc. Khi chúng tôi tới vẫn c̣n những đám cháy nhỏ và
những đám khói bốc lên. Trung đội 41 lảnh nhiệm vụ tấn
công thẳng vào chính diện của chùa. VC từ trên lầu cao
bắn xuống dữ dội và trung đội 41 phải dạt qua hai bên
nhưng vẫn c̣n để lại xác chết của một binh sĩ. Ta phải
dùng hỏa lực từ xa bằng súng không giật SKZ 57 ly và hai
cây đại liên 30 bắn khống chế đám VC đang có mặt từ trên
cao, để tiếp tục tiến vào. Nhưng kết quả không được như
ư. T́nh trạng gần như tiến thối lưỡng nan. Nhưng địch
cũng biết chắc một điều là TQLC sẽ bám chặt bọn chúng và
đang t́m mọi cách để kiểm soát ngôi chùa. Các trung đội
bao vây chung quanh cũng được ĐĐ báo động là VC đang t́m
cách thoát ra ngoài như một bầy chuột bị động ổ. Lúc bây
giờ khoảng 10 giờ sáng, tôi đang đứng trên căn gác của
một ngôi nhà gỗ quan sát phía cổng sau ; bỗng có một
người dắt chiếc xe đạp đang lách qua cánh cửa, hắn nh́n
bên trái, bên phải, “ mắt láo liên như thằng ăn cướp”
rồi định thót lên yên xe, tôi thấy ḿnh bỗng dưng la lên
: “ bắt lấy nó”. Hạ sĩ nhất Nguyễn Đức Diệt và hạ sĩ Lê
Văn Nhị từ bên trong nhảy ra tóm lấy và đè tên này xuống
đường nhựa. Hạ sĩ Nhị kêu lên : “ Có súng K54, thiếu úy
ơi !”, có cả một phóng đồ hành quân khu vực Sài G̣n,
trên cánh tay trái của chiếc áo trong có một cái băng
màu đó đề chữ B29. Tôi nghĩ ngay đúng là VC rồi. Phải là
cấp chỉ huy mới có K54 và phóng đồ hành quân. Những
người lính hỏi th́ nó chỉ nói là “ liên lạc viên.” Hạ sĩ
Sung mang máy đă nhanh nhẩu báo lên ĐĐ và bên kia tôi đă
nghe tiếng của trung úy Dzoan : “ Trói nó lại và cho
người đưa lên đây cho tôi.” Tôi vội vàng thi hành lệnh
và coi như công việc của tôi đến đấy là xong. Tôi cũng
không kịp hỏi hắn tên ǵ ? Nhưng có một điều tôi được
biết là sau khi áp tải tên này lên ĐĐ th́ được lệnh đưa
tiếp lên TĐ, cũng bằng những người lính của trung đội
42, và đích thân thiếu tá Ngô Văn Định, áp giải tên này
lên cho người trực tiếp chỉ huy trận đánh vào chùa Ấn
Quang là chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc
CSQG, mà TĐ2 tăng phái.
Tại đây tướng Loan đă dùng cây roulo của ông bắn chết
tên đặc công VC. Sau này tôi được biết tên VC đó là một
đại úy đặc công có tên là Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp. Một
phóng viên ngoại quốc tên Eddie Adams đă chụp được những
bức ảnh của sự kiện này. Hắn đă bán những bức ảnh với số
tiền lớn. Giới báo chí thiên tả và đám phản chiến ồn ào
giận dữ lên án và khai thác một cách tận t́nh, đúng như
lời một kư giả Mỹ đă viết : “ The shot not heard’ round
the world, but seen’ round the world.” Nhưng cuối cùng
vấn đề cũng được nhận ra rơ ràng cũng với những kư giả
này : “ What never caught up with the impact of the
picture was the fact that in the first hours of the Tet
offensive before general Loan shot the man, Vietcong had
behead a Vietnamese lieutenant colonel Tuan Nguyen anh
killed his wife and seven children.”
Đúng là những bức h́nh oan nghiệt đă
đưa tướng Loan vào một khúc quanh nghiệt ngă của cuộc
đời
Tôi cũng xin kể thêm một đoạn về trận chiến tại chùa Ấn
Quang để kết thúc phần bài viết này. Trung đội 42 được
lệnh thay thế trung đội 41, tấn công vào chùa. Tôi đề
nghị ĐĐ vẫn tiếp tục khống chế hỏa lực từ trên cao của
địch bằng hai khẩu SKZ 75 ly và hai khẩu đại liên 30.
Đồng thời tôi thành lập 3 tổ xung phong, mỗi tổ 3 người
do hạ sĩ nhất Nguyễn Đức Diệt và trung sĩ Bùi Văn Rơi,
c̣n tôi cũng phụ trách một tổ. Hai tổ từ hai bên bờ
tường của chùa ḅ đến một vị trí an toàn , từ đây liên
tục quăng những trái khói màu. Khi đă có một màn khói
tương đối che phủ mặt tiền của ngôi chùa, cả 3 tổ vừa
tác xạ, vừa xung phong vào cửa chính. Một quang cảnh
thật khủng khiếp đă bày ra trên sàn đại điện. Có rất
nhiều người chết và bị thương ; tiếng rên la nghe thảm
thiết vô cùng. Nhưng tại sao họ tập trung quá nhiều ở
đây ? Họ thừa biết đám VC đă sử dụng đám người nhẹ dạ để
làm tấm b́nh phong cho bọn chúng (!). Họ là những kẻ
đồng lơa hay là những nạn nhân đáng thương? Tôi thật sự
không hiểu và cũng không muốn hiểu.
Có nhiều dấu máu dẫn lên lầu. Chắc chắn có nhiều đặc công VC vẫn c̣n trên những gác chuông phía trước. Tôi gom mọi người vào một góc và tập trung một số nhà sư để đưa chúng tôi lên lầu. Hạ sĩ Sung đưa máy cho tôi và bên kia ĐĐ trưởng cho biết cảnh sát sẽ vào lục soát c̣n TQLC th́ kéo ra. Tôi rất mừng v́ không c̣n đổ máu thêm nữa ; cho đến bây giờ trung đội của tôi chưa có thương vong.
Những ngày đầu binh nghiệp của tôi và
trận chiến tết Mậu Thân là thế đó.
*
Dĩ nhiên, những giai đoạn của cuộc tổng tấn công của VC
vẫn c̣n nhiều hồi hộp và hấp dẫn, nhưng bài viết này dài
quá rồi, xin được hẹn với câu : Hồi sau sẽ rơ..”
Nhưng tôi vẫn không hiểu : Người Mỹ đă lo sợ ǵ trong cuộc chiến tranh tại VN ? TT Harry Truman đă cách chức danh tướng Mc Arthur khi ông đề nghị tiêu diệt cái “ cộng ḥa nhân dân son trẻ” ( trung cộng ), cái mầm mống CS gây loạn sau này. Cứ nh́n vào bức h́nh TT Lyndon B. Johnson gục đầu lên chiếc bàn làm việc ở pḥng bầu dục sao mà thê thảm quá. Ông c̣n tuyên bố bỏ cuộc, không ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Và tệ hại hơn nữa, ông ra lệnh ngưng mọi cuộc oanh tạc miền bắc để mời gọi VC ngồi vào bàn hội nghị. Chẳng lẽ người Mỹ ngây thơ đến độ không hiểu cái chiến thuật “ vừa đánh vừa đàm” của CS ? Mục đích của một cuộc chiến tranh là chiến thắng. Người Mỹ đă thực sự muốn chiến thắng tại VN hay chưa ? Người Mỹ đă điều khiển cuộc chiến VN từ một nơi rất xa xôi và bằng những người không có một kiến thức về quân sự : Robert M. Namara chỉ là một nhà tài phiệt, Clark Clifford cũng thế ; Henry Kissinger không phải là một người thương thuyết mà chỉ là một tay Do thái chuyên đi đêm và đổi chát. Người Mỹ không chịu t́m hiểu bản chất của cuộc chiến mà chỉ muốn bao thầu, ôm đồm để rồi rút chạy, bỏ cuộc. Tại Iraq, Afghanistan bây giờ cũng thế. Chẳng lẽ người ta quá cao ngạo, quá tự hào là cường quốc số một duy nhất để không một lần nh́n những cái thảm bại của ḿnh và những người mà ḿnh gọi là đồng minh ?
Những người lính VNCH đă đánh thắng
trên chiến trường, điều này không thể phủ nhận được,
nhưng họ đă bị mất trắng tay tại chính trường và đường
phố Mỹ, đúng như lời chân thành của Thống tướng William
C. Westmoreland : “ Chúng ta không thua tại VN, nhưng
chúng ta đă không giữ lời cam kết đối với Quân lực VNCH.
Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, chúng tôi chân thành xin
lỗi các bạn cựu quân nhân của QL/VNCH v́ chúng tôi đă bỏ
rơi các Bạn .” ( On behalf of the United States
Armed Forces, I would like to apologize to the Veterans
of the South Vietnamise Army Forces for abandoning you
guys.)
* * *
Anaheim 29/12/2010
MX Kiều Công Cự
Tài liệu tham khảo :
- Tuyển tập 2/TQLC : Những cây bút Cọp Biển.
- Trận Mậu Thân : Sử gia Đại tá Phạm Văn Sơn.
- Những trận tổng tấn công 1968-1969 : Đại tá Hoàng Ngọc
Lung
- Một đời xin ghi lại : Kiều Công Cự
- VN : A complete photographic history : Mivhael Mc Lear
& Hal Buell.