Có nhiều cách gọi về song thân tùy
theo địa phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh
Kiến An, Hải Pḥng th́ con gọi bố mẹ là thầy bu, v́ thế
tôi xin giữ hai danh từ này cho bài viết về mẹ tôi, một
bà mẹ quê.
*
Thầy tôi qua đời ngày 15 tháng Giêng năm 1947, hưởng
dương 41 tuổi! Ông cụ mất đi khoảng sau 2 tháng bị bệnh
mà thuở ấy người vùng quê chỉ biết gọi là bệnh “thương
hàn”(?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và khi các
con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng th́ nay tôi không c̣n
nhớ ǵ nữa! Kỷ niệm duy nhất c̣n sót lại trong đầu tôi
là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa
sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ, khi đến
bên bờ hồ trước cửa nhà thờ th́ nó nhào xuống nước,
ngước mũi lên thở ph́ pḥ, c̣n tôi, một thằng bé chăn
trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi đành
buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc v́ sợ con trâu sẽ
chết đuối.
Nhưng với bu tôi, một bà mẹ quê, th́ tôi nhớ nhiều,
nhưng chưa một lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh
chị em và con cháu. Khi thầy tôi mất th́ bu tôi mới 43
tuổi với một nách bẩy đứa con, tất cả cùng sống trong
căn nhà tranh vách đất ba gian hai trái, một mảnh vườn
với dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến
An,thành phố Hải Pḥng, và chỉ cách hai nơi này chừng
hơn 3 cây số.
Một h́nh ảnh tuy đă hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn c̣n như
đang thấy trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu
tôi đứng ở góc vườn, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên
thầy tôi trong tiếng nấc sau khi đă chôn cất thầy tôi
xong.
Bu tôi cả ngày phải chân lấm tay bùn với ruộng lúa vườn
rau, mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu
cám cho lợn (heo) xong th́ mặt trời đă lặn, giữa lúc
tranh tối tranh sáng, bà lẳng lặng ra góc vườn, lúc th́
ngồi ngắt đọt khoai lang, khi th́ đứng hái lá chè mà
thút thít khóc trong khi các con không hay biết.
Một buổi chiều tối, khi chim đă về tổ, tôi leo lên cây
cau ở góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con
“chíp chíp” mà tôi đă ŕnh từ lâu, tôi thất kinh suưt
rơi xuống đất khi bất chợt thấy bóng đen đứng khóc góc
vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra giải khăn tang
trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của
bu tôi, tôi vội tụt xuống định chạy vào nhà, nhưng rồi
khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau v́ nghe tiếng
bu tôi khóc:
“Ối ông ơi! Trời đă tối rồi! Ông đi đâu mà sao không về
ăn cơm uống nước với các con ông ơi!” .
Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không
biết sợ ma nhưng tôi rùng ḿnh nổi gai ốc khi nghe bu
tôi kêu lên như thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm
trong họng không cho ra tiếng v́ sợ các con nghe được,
chắc bà cam chịu đau khổ thương nhớ một ḿnh, không đành
chia nỗi buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi
không ai hay biết việc này, v́ sau một ngày quần quật
với công việc ruộng lúa vồng khoai th́ tất cả đă mệt
nhoài, mọi người đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy
và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ sáng là
đă phải dậy để chuẩn bị ra đồng.
Riêng ḿnh tôi biết bu tôi khóc, tôi chẳng nói cho ai
hay, nhưng tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến
tôi cứ đứng sau hè nh́n bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối
héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt theo. Nhiều khi
tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của khổ đau kéo
cành chè gẫy xuống! Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói
bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang:
_ Mẹ Quán sao cứ khóc măi thế! Hăy để cho Quán nó yên
nghỉ.
Đó là tiếng của cụ Dưỡng, chú của thầy tôi, chắc cụ cũng
sót ruột v́ tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu
tôi là cháu dâu nên phải vâng lời chú, từ đó bu tôi
không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu v́ nấm
mồ chôn chồng chưa xanh cỏ th́ làm sao vơi nên nước mắt
tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong góc bếp
giữa đêm khuya.
Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê với
căn nhà lá có nhiều khe hở để gió lùa vào, anh em tôi
nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu th́ hở đuôi và ngược lại
kín chân th́ tḥ đầu, cái lạnh đêm khuya lại thêm dạ dày
trống đúng với câu châm ngôn “bụng đói cật rét” nên giấc
ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vửa gáy, tôi thức
giấc thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi ḅ dậy và mon
men tới để sưởi cho ấm th́ thấy bu tôi ngồi nấu cám heo,
một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa
cháy, bóng mẹ tôi in lên vách bếp, ngả nghiêng theo ánh
lửa bập bùng. Đêm khuya, thấy con thức dậy ḅ xuống bếp
th́ bà mẹ biết con đang thiếu cái ǵ. Vừa trông thấy
tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:
_ Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu nướng cho
con củ khoai.
Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ lép-bép làm
bắn ra những tia lửa tựa pháo bông và kéo theo tro bụi
phủ lên người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro
trên tấm khăn tang trắng rồi lấy củ khoai lang ở cái
thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu
rau”.
Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro”
là ǵ, mùi vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của
bu tôi hiện nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng không
biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang vùi bếp tro mà bu tôi
“ban” cho tôi không có ǵ so sánh được. Người ta thường
dùng chữ “ban” đề nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế,
Chúa, Phật ban cho con chiên, phật tử, nhưng bu tôi đă
“ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông
giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng
tối và t́nh mẹ con.
Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, ṿ nắm rơm chà lên
vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:
_ Khoai c̣n nóng lắm, con ăn từ từ.
Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon với trẻ em miền quê,
nếu em đói mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ th́ sẽ bị
nóng phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”,
ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang dễ bị nghẹn. Bụng
đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng th́
thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn của tôi
biến đi đâu mất, tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là ǵ,
nhưng vẫn cứ bẻ cũ khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa
mà không nói một lời nào cả? Biết nói ǵ hơn, và dù biết
văn hoa chữ tốt th́ trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói
cũng bằng thừa, là sáo ngữ. Tôi đưa nủa củ khoai cho bu
tôi chỉ v́ tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ
v́ trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya mả tôi
thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu v́ tôi
biết bu tôi cũng đói nhưng nhường miếng ăn cho con như
tất cả các bà mẹ khác.
Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nh́n tôi không nói ǵ
cả nhưng lại choàng tay qua kéo tôi vào ḷng. Tôi biết
bu tôi đang thổn thức và rồi bà khẽ nói:
_ Con lên nhà đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để c̣n
kịp “ra đồng”.
Hai chữ “ra đồng” là chỉ công việc ngoài đồng ruộng như
cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng
khoai, trồng bắp (ngô) v.v..những công việc của nhà nông
để làm ra thực phẩm mà người “thành phố”, nhất là các
bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có thể h́nh dung
ra được nó vất vả như thế nào.
Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần
dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre, rồi bị chạy
loạn v́ chiến tranh! Khi hồi cư về làng cũ th́ chỉ c̣n
hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại chạy theo ḍng người di
tản. Thấy họ đi th́ bà mẹ quê cũng dắt con đi, không
biết đi về đâu và làm ǵ! Những lúc gian nan khốn khổ
như thế chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi và mong
chồng chỉ lối đưa đường cho vợ góa con côi được về nơi
b́nh an.
Cuối cùng th́ gia đ́nh tôi làm dân di cư trôi dạt vào
Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh B́nh Dương năm
1954. Người nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ
dại”, vất đâu cũng sống được với đất, nhưng mẹ con chúng
tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có hai bàn tay
nên phải xoay sở, các anh chị tôi lúc này đă trưởng
thành nên phiêu lưu về thành phố và gia đ́nh tôi lại di
chuyển về 172/41 đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, quận
Bốn, Saigon.
Bu tôi, một bà mẹ quê “lạc” về thành phố, bỏ lại sau
lưng xa tít mù khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn và
nhất là mồ chồng mà sẽ không bao giờ được nh́n lại nên
bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau khi đă có tiếng
bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây
phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác,
thương cháu chăm sóc cháu hơn thương con.
Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái b́nh với cháo rau
đạm bạc bên con cháu cho tới lúc đầu bạc răng long th́
chiến tranh lại tràn về, các con trai con rể của cụ lên
đường ṭng quân, thằng Cao Nguyên, đứa Đông Hà, con trai
út ở núi Sơn Chà th́ con trai áp út ở măi tận mũi Cà
Mâu, đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ! “Đại bác đêm đêm
vọng về thành phố” th́ bà mẹ quê khốn khổ thức giấc ngồi
tựa lưng vào vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng
đọc thầm chuỗi Mân-Côi cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho
đàn con nơi lửa đạn.
Nhưng hằng ngày bu tôi vẫn nhói tim khi nh́n những xe
nhà binh GMC trên chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa! Khi
nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng
sọc đỏ là của lính chết trận đó th́ bu tôi vịn tường
ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.
Rồi sáng ngày N tháng 6/1966, một xe GMC chạy vào xóm và
từ từ dừng lại khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng
người lính TQLC t́m nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là
người cùng quê, để báo tin con trai bà là thằng Măo đă
tử trận! Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng muốn xỉu
theo, v́ Măo và tôi là bạn và cùng t́nh nguyện vàoTQLC.
Măo Tiểu Đoàn 1, tôi Tiểu Đoàn 2, cả hai vừa đụng trận
tại ngă ba sông Định, thuộc Bích La Thôn Quảng Trị, nó
tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao
nên tôi đă nói với hậu trạm là đừng báo tin về cho gia
đ́nh biết. Khốn thay, hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo đúng thủ
tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe nhà binh đậu
trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi,
người báo tin chưa kịp nói ǵ th́ bu tôi không c̣n biết
ǵ nữa!
V́ bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để đi phép.
Bu tôi đang nằm trên giường bệnh, thấy tôi về, cụ ngồi
bật dậy ngơ ngác nh́n con, hai tay vuốt mặt con, nắn
vai, nắm tay con lắc lắc như muốn biết đây là thực hay
chiêm bao? Bu tôi không nói gỉ mà chỉ khóc, có lẽ cụ
khóc v́ lo âu, cụ khóc v́ hạnh phúc c̣n cầm được tay con
vừa từ mặt trận trở về, những bà mẹ của lính chiến thấy
mặt con lúc nào th́ hạnh phúc lúc đó. Tôi xin mượn ư bài
thơ MTHS: “không chết người con lính chiến mà chết người
mẹ ở hậu phương”, người lính chiến nếu có chết, chỉ chết
một lần, nhưng bà mẹ hậu phương th́ chết dần chết ṃn,
chết giấc v́ con!
Bu tôi đă chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa
con, đứa cháu trong họ hàng và cùng ở TQLC lần hồi tử
trận như Tô Chiêu, Tô Sơn, Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh
v.v..Cuối cùng th́ ngày 19/6/1969, trên con kinh Cán Gáo
thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đă loại tôi ra
khỏi ṿng chiến, nhưng may mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn,
Thanh v.v.., tôi c̣n nặng nợ, chưa đi được nên khi tỉnh
dậy, thấy ḿnh nằm trên giường bệnh bệnh viện, toàn thân
những dây cùng nhợ! Mờ mờ nh́n qua lớp băng quấn đầu,
tôi nhận ra bu tôi đang lấy cạy vết máu, vết śnh đă khô
trên mặt tôi, tôi mấp máy đôi môi, gọi qua hơi thở của
b́nh dưỡng khí:
_ “Mẹ”.
Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi quen với chữ
“Mẹ” từ đó.
Tôị bị trọng thương, bị loại khỏi ṿng chiến th́ cũng là
lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu, thấy tôi lê lết với
đôi nạng gỗ kẹp nách th́ mẹ lại mỉm cười:
_ “Con cứ như thế này th́ mẹ đỡ lo”.
Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc quanh quẩn
một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết
viết, không biết đọc mà chỉ biết khóc v́ con. Thế rồi
đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tực vất vả v́ các
con, lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh
nh́n mẹ rồi vất đôi dép làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đă len
lén để vào túi xách cho tôi lên đường “vinh quang”.
Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai người anh
rể đều lên đường để “được” cải tạo làm con người! Chẳng
cần nói thêm th́ ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn
cảnh ấy th́ “có vui bao giờ”! Nghe hàng xóm x́ xào bán
tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho
các con để sớm được về đoàn tụ!
Quá khứ đời tôi lính chiến đă khiến mẹ lo âu sợ hăi
nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này, tôi lôi
đôi dép cao su ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà,
mẹ tôi nh́n sững tôi và chắc bà tự hỏi tại sao con lại
vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để sớm được
về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được t́nh thương mênh mông
của bà mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai
mẹ đang chín từng khúc ruột. Tôi lẳng lặng cầm túi xách
với bộ quần áo lên đường, không lời chào từ giă mẹ già
đang ngồi tựa lưng vào vách mà mắt nh́n theo gót chân
con!
“Cải tạo” tới năm thứ chín th́ tôi hay nằm mơ thấy mẹ,
linh tính cho biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà
mỗi khi đến thăm nuôi th́ được biết mẹ tôi vẫn b́nh
thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong giấc mơ, tôi đem
chuyện hỏi lại th́ lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách
ra một xấp h́nh đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo nhưng
dấu kín. Tôi không c̣n nước mắt để khóc mẹ v́ tôi đă
không chào mẹ khi ra đi, không biết rằng đó là lúc chào
lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi khóc
v́ các con phải đi xa khi đă thái b́nh khiến mẹ mù ḷa!
Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!
“Ḷng mẹ thương con như biển Thài B́nh dạt dào”, ḷng mẹ
như bị dao chém mỗi khi nghe tin con “thắng trận” trở
về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về ḥm gỗ cài hoa”!
Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong vài trang giấy!
Những bà mẹ dù quê hay thành phố, dù bên này hay bên kia
đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ VN th́ lúc nào cũng vui và khổ
đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui khi
các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ
của các anh lính chiến luôn canh cánh bên ḷng, lo sợ
phải rên rỉ câu:
_“Lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống !!!”
Những ai c̣n mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa th́ xin
chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đă phạm đối với “bà Mẹ
quê” để khỏi phải ân hận khôn nguôi./.
Captovan