Thưở bé, mỗi lần mấy anh tôi làm không đúng ý của ông, cha tôi hay xài xể rằng “Thằng nầy sao ngu như bò”. Tôi cũng chẳng biết con bò nó có khôn hay ngu gì hơn bọn tôi không, có điều là trên thực tế cặp bò nhà tôi, con Đạm và con Vàng, chứng minh cho thấy chúng nó chẳng ngu tí nào, hay ít ra cũng còn khôn hơn một số... người! (Không có anh em tôi trong số đó như ông già tôi hay rủa đâu nghe).
Những năm 1930, cha tôi ra làm
“giáo làng”, thôn trên xóm dưới đều kính cẩn gọi
ông bằng “Thầy”. Mẹ tôi chăm lo cái tiệm bán đủ
thứ thực vật trên chợ Bình Phước, kể cả “ ba xi
đế” lậu; lậu là vì Tây cấm tư nhân nấu rượu,
mọi việc đều do Tây hết cả, dân ta sống trên đất
nước ta mà chỉ có quyền đi làm mướn cho Tây thôi.
Ngoài ra cha mẹ tôi còn sắm một cái xe bò và dĩ
nhiên là có nuôi một cặp bò để kéo. Gia đình
đông con phải lo chạy gạo bằng mọi cách, mỗi
ngày kiếm thêm được lon nào hay lon nấy. Anh chị
em nhà tôi một chục đứa chẵn chòi, chỉ có ba cái
đĩ, “chạp”cũng bạo và đáng nể lắm chớ chẳng
phải chơi. Tuy nhiên không có ai trong chúng tôi
phải làm “tài xế” xe bò cả. Ông già tôi có mượn
một chàng trai làng to khỏe phụ trách chuyện đó.
Anh tài xế nầy tên gọi là Sấm. Trong tuần, bao
giờ cũng có vài ba mối nhờ chở cái nầy đi đây,
chở cái kia đi đó. Có một lần Sấm chở hàng đi
khá xa, vào tận Dĩ An, cách nhà trên chục cây số
ngàn, vừa lên hàng xuống hàng, đi về cũng mất
trọn một ngày. Sấm lo cơm nước đem theo ăn dọc
đường. Khi vào tới Dĩ An, giao hàng xong xuôi trời
đã nhá nhem tối. Dằn bụng xong, Sấm đốt ngọn
đèn dầu leo lét treo tòn ten dưới sàn sau xe, rồi
lên nằm nghỉ trên chiếc võng mắc chéo góc trong
xe, bên trên có mui lá che mưa đỡ nắng. Một mình
cà rịch cà tang trên đường vắng, tiếng lục lạc,
tiếng nhịp chân đều đặn của đôi bò hòa với
tiếng lạch cạch lộp cộp của cặp bánh xe chẳng
mấy chốc đã êm re đưa Sấm vào cơi mộng. Chiếc xe
hai bò, chớ không phải “đơ sơ vô” 2CV, không người
lái vẫn chậm rãi tiến đều trên con đường nhựa.
Khi ra tới ngă ba quốc lộ Biên Hòa, cặp bò biết
rẽ phải để về Bình Đường. Đến ngả ba Bình Đường
chúng nó lại biết chọn đúng con đường bên phải
để về Gò Dưa, chớ không thẳng ra Thủ Đức. Tới
ngă tư Gò Dưa chúng lại biết thẳng đường ra Bình
Phước. Tới ngă tư Bình Phước chúng lại biết rẽ
trái để về chuồng chớ không thẳng ra sông cái vì
lúc đó chưa có cây cầu Đại Hàn. Mọi việc chúng
nó đều tự lo liệu lấy, tên Sấm đánh xe làm việc
mệt, ăn no ngủ vùi, giao mạng cho cặp bò đi đâu
mặc kệ. Khi tới nhà, cặp bò dừng lại trước
cổng, dậm chưn, lắc lục lạc treo ở cổ để báo
động người trong nhà và đánh thức Sấm đánh xe
dậy. Nhưng Sấm chẳng dậy, mà ông già bà già tôi
thức giấc, biết là xe về tới, đốt ngọn đèn dầu
hôi bước ra mở cổng và xoa đầu hai con bò tỏ vẻ
thương mến, cảm phục. Chừng đó Sấm nhà ta mới
giựt mình tỉnh ngủ, thấy đã tới nhà mừng hú
vía, nhảy xuống nựng hai con bò lia lịa.
Thế mới biết ông già tôi rủa tầm bậy : bò đâu
có ngu đến nỗi nào. Bằng chứng rành rành là dù
trong đêm, trên “xa lô nô lai” (xa lộ không đèn ), xe
không có pha “code”, cũng không cần người lái, vậy
mà bò nhà tôi vẫn biết chọn đúng đường mà đi,
không sai, không lạc. Chẳng như ngày nay lắm tên
nghệ sĩ nầy, giáo sĩ kia, tiến sĩ nọ, ông
tướng, ông tá tùm lum tà la, mắt mở trao tráo mà
không thấy đường, chỉ thấy “đô”, nên cứ chạy loanh
quanh lính quính như chó mắc đít, như gà mắc đẻ,
trông mà bắt tức cười (vừa tức, vừa cười). Cũng
chẳng khác gì những nhà “từ thiện, hảo tâm...
hảo” cả ngày cứ lu bu hô hào bà con góp tiền
gởi về “cứu đói giảm nghèo” nhân dân trong nước
mà không buồn tìm hiểu vì đâu dân đói, dân
nghèo... Mấy người đó mới thực là ngu hơn bò
nhà tôi. Thường thì giống hai chưn khôn hơn giống
bốn cẳng, ấy vậy mà vào thời đại điên tiến nầy
hình như mọi thứ đều bị đảo lộn. Vì vậy cho
nên, xưa bò bốn cẳng biết đường mà về nhà, nay
thì kẻ hai chưn không biết đường nào phải đi, chỉ
chạy hộc xì dầu, mờ cả mắt theo mấy tờ giấy
bạc, hay theo cái quạt của nữ sĩ họ Hồ “phành
ra ba góc da còn thiếu”. Thế cho nên thằng ngu
nhưng bạc đô nó dắt đi đâu cũng theo, nói gì cũng
nghe, bảo làm gì cũng làm, chông gai nào cũng
vượt qua, nhục nhă nào cũng chịu được. Thật dễ
sợ : sức hút của danh lợi nó ghê gớm gấp trăm
nghìn lần sức hút của vũ trụ. Những tên vô sản,
vô học từ thuở lọt lòng mẹ, chưa từng thấy của,
bây giờ bị hút là lẽ tự nhiên, dễ hiểu; nhưng
những người đã từng cắp vở đến trường, từng
biết qua kinh sách thánh hiền và cũng từng nếm
mùi quyền môn... mà vẫn cứ dí đầu vào bùn nhơ
là sao? Họ không có, hay không còn đủ lý trí để
phân định phải trái? Họ đã học được gì và học
để làm gì? Bởi thế nên giao du với người ít học
nhưng nhiều suy nghĩ vẫn hay hơn là gắn bó với
kẻ khoa bảng nhưng ít nghĩ suy. Mà rồi suy đi
nghĩ lại, ngoài cái bản chất “trời sanh” của
mỗi người, mọi việc cũng do mười một thế kỷ bị
trị. Bác và Đảng mới có vài thập niên mà dân
Bắc đã ra nông nỗi, trách chi những kẻ từ nghìn
năm qua chỉ cố học hành, đạt khoa bảng để vinh
thân phì da. Đỗ đạt mà rồi “áo gấm không về
làng”, chẳng được “vinh qui bái tổ” thì học để
mần răng? Nói toạc móng heo ra rằng đó chỉ là
hậu quả tất nhiên của người bị...Tàu trị, Tây
đè : học để “ra làm quan” ! Đó chỉ là một cách
nói của Chệt, của Tây mũi lơ để dụ khị trẻ con,
mê hoặc người lớn; thực tế là học để ra “làm
mọi” cho kẻ thống trị, giúp chúng che đậy tội
ác, để chúng rảnh tay lo việc bóc lột... Trên
mười thế kỷ bị trị vừa qua, cái rễ đó nó đã ăn
sâu đến mức độ nào vào biết bao nhiêu thế hệ ông
bà, cha chú của chúng ta. Tôi còn nhớ mãi lời
mẹ tôi hay trách cha tôi và ông anh thứ ba : “Người
ta lấy thúng đong gạo, chẳng ai lấy thúng đong
chữ”. Lúc đó, ông anh thứ hai, tức anh cả,
vừa cấp tốc ra đi không kịp báo cáo lý do vì
bịnh gì; anh mới 19 tuổi khi vừa tốt nghiệp Cao
đẳng mỹ thuật Gia Định, được chọn và đang chuẩn
bị để cùng phái đoàn Việt Nam đi dự “Chợ phiên
quốc tế” ở tận San Francisco. Đối với làng xóm,
đó là một niềm hănh diện lớn cho gia đình vì
phải đậu cao khi ra trường mới được chọn. Tôi
không được hân hạnh biết ông anh cả vì lúc ông
mất tôi còn đang từng bước học đi. Ông anh thứ ba
là học sinh Pétrus Ký, đang chuẩn bị thi thành
chung và cũng đang mắc phải lao phổi, nhưng vẫn
cố gắng đạp xe đi về mỗi ngày trên ba mươi cây số
để đến trường. Ông anh ba của tôi đã căi lời mẹ
cha không chịu tạm nghỉ học để lo chữa bịnh,
nhứt quyết “học chết bỏ”. Tôi còn nhớ ba tôi hay
nhắc lời của anh tôi rằng : “Thà làm ma biết
chữ hơn là làm người dốt nát”. Những người
trẻ tuổi bao giờ tâm hồn cũng trong sáng, khí
khái, xa rời thực tế. Và chỉ sau một thời gian
ngắn anh ấy được làm ma biết chữ thật. Anh cũng
vừa tròn 19 tuổi! Phải chi anh ấy còn sống sót
đến ngày nay để nhìn thấy tận mắt cái đám vô
học dốt nát chúng lấy thúng hốt thật, hốt sạch
sành sanh tài sản quốc gia như lời mẹ tôi nói.
Đã bảo rồi, người xưa nói ít khi sai. Bây giờ
nghĩ lại mới thấy ông anh của tôi chẳng khôn hơn
mấy con bò trong nhà, ổng đã tự hủy hoại cuộc
đời son trẻ một cách lăng nhách, và làm cha mẹ
một đời buồn khổ vì chỉ trong khoảng thời gian 4
năm mà mất luôn hai người trai lớn ở tuổi thanh
xuân. (Nhưng người trong làng cho là “số cả” vì
ông già tôi đặt tên hai anh tôi là Hổ với Lai. Mà
Hổ Lai là ... hai lỗ !). Vả lại học cho chết thì
học để làm chi? Nói nhỏ nghe chơi chớ thật ra
thà như thế còn ít tai hại cho xã hội hơn là
cái thứ khoa bảng mà ngu như bò, nham nhở, vô luân
theo cái kiểu “science sans conscience”... của thời
đại nguyên tử, học xong rồi cút mất, chẳng thèm
về giúp nước, giúp dân, lại còn a dua theo CS.
Thà dốt nát nhưng còn biết ôm “em mười sáu” (M16)
dứt vài thằng VC bảo vệ quê nhà trong lúc “sơn
hà nguy biến”, nhân dân lầm than. Ấy vậy mà có
những kẻ khoa bảng ngu như bò đã ngang nhiên ví
người lính chiến, mà họ miệt thị là thằng
lính, với cái C.C. của họ, gọi họ là những kẻ
liều mạng tức hành động không suy nghĩ. Vậy là
các sĩ quan thủ khoa các trường võ bị khi chọn
các binh chủng “sống hùng, sống mạnh nhưng không
sống lâu” nhằm góp phần tích cực bảo vệ quê hương
đều là những kẻ hành động không suy nghĩ ? Phần
họ, khi đề cập tới người quân nhân với các từ
“thằng lính, liều mạng” họ có biết là họ liều
mạng khi nói như thế không? Cái tai hại của nhà
trường trong các nước điên tiến là chỉ chú tâm
“đào tạo chuyên viên” để phục vụ kinh tế, và xem
nhẹ việc “giáo dục con người” nhằm “thiện hóa”
xã hội.
Nói chuyện ngu như bò chẳng khác nào rờ dái bò,
bị đá mang đầu máu lúc nào không biết, bởi vì
phe ta có rất nhiều kẻ đầy mặc cảm, có tật nên
hay giật mình cứ tưởng thiên hạ chọc lét mình!
Nhưng nhìn thiên hạ mà sinh tức khí chẳng nói
chẳng được, không nói có ngày khí tồn tại não
bị tẩu hỏa nhập ma mà thác. Thực ra thì mình
đâu có luận bàn, phê phán gì cho cam, chỉ có nêu
lên sự việc để cùng “tức”, cùng suy ngẫm, cùng
rút tỉa kinh nghiệm. Có vậy thôi. Ví như một hôm,
có người bạn trẻ thỏ thẻ rằng :
“Trong trái tim em chỉ có tình yêu, không có hận thù”.
Nghe qua nó đã làm sao ! Nhưng rồi ngay sau đó đã có một “bực trưởng thượng” tuổi hạc cao, tài cũng cao và khoa bảng càng cao hơn, cái gì cũng cao hết, chỉ trừ có cái tâm địa là thấp (địa thì làm sao mà cao được), chớp ngay câu nói ngây thơ trong trắng đáng yêu đó, dùng nó như một vũ khí để “đâm bị thóc, chọc bị gạo” cho vui đời lưu vong. Bực trưởng thượng đó tự cho mình tâm tràn đầy nhân đạo, đã lên giọng lớn tiếng xài xể những ai còn “ mang hận thù”, và xuống giọng, để giấu cái đuôi hồng hồng đỏ đỏ, “đối với CS”. Ông khuyên phải theo gương của em bé kia, chỉ có yêu thương thôi, phải hiểu “rộng ra” là thương cả CSBV; thánh hiền đã chẳng dạy rằng hễ bị tát má trái thì đưa luôn má phải hay sao. Bởi vậy, VC đã nuốt miền Bắc rồi thì nộp luôn miền Nam cho đúng lời thánh hiền dạy... tầm bậy. Nếu ai chưa biết hay mau quên thì xin nhắc nhỏ : đặc công, xúi dại là nghề riêng của VC nằm vùng. Nghe lời “dại” của bực trưởng thượng kia, tôi chỉ còn biết kêu trời, chớ nói gì bây giờ? Tiếc rằng cặp bò đã tiêu tùng, bằng không leo lên lưng bò, ôm cổ bò và thủ thỉ vào tai bò chẳc hẳn sẽ thú vị hơn nhiều. Ai đời đi lấy lời trẻ con thơ ngây để dạy đời thiên hạ. Bực trưởng thượng nầy phải là một ông cụ...”non”. Lứa tuổi đôi mươi lý tưởng đang chói chang sáng rực, làm mù lòa cả mắt, người tuổi trẻ nhìn đời qua tình cảm, tưởng tượng nhiều hơn qua lý trí và kinh nghiệm thực tiễn; lý trí bao giờ cũng “chậm tiến” hơn tình cảm. Sau vài thập niên lăn lóc bụi đời, va chạm thực tế, bị bò đá liên miên... mờ cả mắt, chừng đó mới mở mắt, và mới biết trái tim em không chỉ có tình yêu mà nay có thêm hận thù, rất nhiều hận thù, nhiều hơn cả tình yêu. Bài hát đã có câu : “Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển...” mà tôi đã muốn cùng các bạn tù hát thật to lên trong dịp Tết 1977 tại trại Hốc Môn, nhưng VC đã không ngu như bò, chúng chỉ cho hát Bạch Đằng Giang thôi. Phải điếc, phải đui hoặc phải ngu si tột cùng mới không nghe, không thấy, không hiểu những bất công, những khổ nhục, đói khát do VC gây ra trên khắp nẻo quê hương từ mấy thập niên qua, để không có hận thù trong tim, để bỏ thì giờ kêu gào đóng góp giủp nghèo, cứu đói trong nước... Nếu hòa thượng Thích Quảng Đức còn sống, thế nào ông cũng xuống đường tự thiêu để phản đối và đánh động lương tri của ... bực trưởng thượng kia và bè lũ “xóa bỏ hận thù, hoà hợp hòa giải”. Nhưng không chắc hòa thượng thực hiện được ý đồ; trước kia VNCH quá tự do nên các sư săi “thích VC” của ông đã lợi dụng mang ông ra giữa phố tưới xăng “đốt cháy hòa thượng và đệ nhứt cộng hòa”. Ngày nay hòa thượng có đem xăng ra khỏi nhà, chớ đừng nói ra tới góc đường, là các đồng chí chận lại ngay và cho ông đi cải tạo “mút mùa lệ thủy”, nếu không muốn cho ông “đi mò tôm”. Tôi không dám nói đến mấy vị chân tu, những bồ tát... Tôi thắc mắc không biết bực trưởng thượng kia có thuộc thành phần những du sinh thời VNCH, được gởi đi du học để về giúp dân, gíúp nước, nhưng họ đã tự giúp mình trước đã, vì đã thấm nhuần văn hóa tây âu “ La charité bien ordonnée commence par soi» bằng cách ở lại hải ngoại giúp nước, giúp dân địa phương. Họ an thân, vui hưởng thái bình, lo xây dựng “khu trù mật”, trong khi những bạn cùng lứa đang xả thân ngoài chiến địa để gìn giữ từng lùm cây bụi cỏ, từng bờ ruộng luống cà. Họ vẫn điềm nhiên cho rằng mình khôn; mà kể ra họ khôn thật, khôn liền tù tì, chỉ có ngu hơn bò và loài cáo già VC vô học nhưng không vô mưu. Người xưa đã bảo : “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, hay nôm na hơn “giặc tới nhà đàn bà phải đánh”... Nhưng họ chẳng phải là loài có vú, họ cũng có phải thất phu đâu mà hữu trách ! Bằng cấp của họ cao nghều nghệu, toàn là tiến sĩ với thạc sĩ, sao dám sánh họ với thất phu?
Còn nếu như vị trưởng thượng kia
là người đã từng nếm mùi CS, từng van lạy người
Mỹ cho “quá giang”, từng chạy sút quần mà nay
lớn tiếng chê người đồng thuyền, đồng hội đã
từng bị CS trả thù, đày đọa, nhục mạ, sát
hại... sao vẫn hận thù CS thì thật là lạ quá :
trên cảnh đời ô trọc ngày nay không dè lại có
một vị thánh, một ông Phật đang sống nhăn răng
giữa thiên hạ, sẵn sàng xá tội VC và hòa hợp
hòa giải với lũ giết người cướp của. Mô Phật,
vậy cũng đỡ lo cái họa “It Lam” đang rao giảng
giết người càng nhiều càng mau về Thiên đàng!
Chỉ cầu mong có nhiều vị đại bồ tát như vậy để
hóa giải “Ít lam” cực đoan cho thiên hạ nhờ. Nói
cười chút chơi chớ thật ra cái ông cụ non (nớt)
cù lần kia quả là ngu hơn bò nhà tôi nhiều lắm.
Ổng sẽ bớt mang tiếng ngu nếu thuộc thành phần
du sinh ngày xưa, những người nầy vì xa vùng khói
lửa nên chả bao giờ biết mùi Tết Mậu Thân, thấy
cảnh Đại lộ Kinh Hoàng, hay đoạn đường số 7
v.v... Họ cũng chẳng thèm biết rằng mỗi ngày anh
em quân nhân, trang lứa với họ, đã gục xuống xỉu
xỉu trên dưới năm ba chục mạng tại chiến trường
Trị Thiên, suốt mấy tuần liền, trong trận thư
hùng mùa hè đỏ lửa để đẩy lui bọn phiến cộng
xâm lăng về bên kia Bến Hải, dựng lại ngọn cờ
quốc gia trên cổ thành Quảng Trị, chưa kể số bị
thương thường nhiều gấp năm ba lần số hui nhị tì.
Tôi tự hỏi không biết họ có hiểu “Mùa hè đỏ
lửa” là cái quái gì không, đã xảy ra năm nào,
tại đâu trên quê hương?..
Nhắc tới những người từng được VNCH cho đi du học
rồi biệt tăm biệt tích, lại nhớ đến chuyện gần
đây có ai đó lập bản phong thần “vẻ vang dân
Việt”. Nhìn qua chỉ thấy toàn những người khôn
hơn bò nhiều, toàn là giáo sư, tiến sĩ thì không
thể ngu được. Ấy vậy mà khi nhìn kỹ lại một
chút thì “thấy vậy mà không phải vậy”. Trước
tiên là mấy tiếng “vẻ vang dân Việt” dùng không
đúng chỗ. Những nhân vật trong bản phong thần phong
thánh kia có ai là “dân Việt” nữa đâu? Vậy phải
nói là “Dở Dang” dân Việt, hoặc “vẻ vang giống
Việt” thì mới hợp tình hợp lý. Vẻ vang giống
Việt thì không cần giải thích vì những nhân vật
được nhắc đến đều là “gốc Mít” cả. Nhưng sao lại
nói là dở dang? Là vì họ đều bỏ dở dân Việt
để thành dân Tây, dân Mỹ và nhứt là “dân gì
đâu”... cả rồi, còn đâu dân Việt để mà vẻ vang?
Còn vẻ vang giống Việt thì phải xét lại : trong
số đó có ít ra cũng một người, một nhà thông
thái, nhìn thấu tận những thiên hà cách ta đến
hàng triệu năm ánh sáng, nhưng khổ nỗi khi nhìn
lại quê hương Việt Nam thì hình như ông ta chẳng
thấy gì cả, chẳng hiểu gì cả, chưa nhắc đến
quá khứ là một du sinh trốn nhiệm vụ. Xưa được
VNCH cho du học rồi không về phục vụ xứ sở, về
sợ bị “bắt lính”; vả lại lương không cao, tiện
nghi không bằng... Trong lúc đại học Việt Nam
thiếu biết bao nhiêu giáo sư để xây dựng tương lai
tuổi trẻ, tương lai đất nước. Ngoài ông nầy ra
cũng còn nhiều người “trốn lính” khác, ngoài
bản phong thần. Lúc VNCH sống chết với giặc
cộng, miền Nam cần đủ thứ chuyên viên, nhưng các
“đấng tu mi” nầy chỉ tình nguyện phục vụ quê
hương thứ hai mà thôi. Thế nhưng khi đất nước đã
“thống nhứt” (và thống khổ) họ lại kéo nhau “áo
gấm về làng”, kẻ dạy đại học, người mở phòng
khám bịnh lưu động, chích thuốc dạo gọi là để
“góp phần xây dựng xứ sở, giúp đỡ dân nghèo”. Nghe
có trào máu không? Phải chi họ im hơi lặng tiếng,
tiếp tục cuộc sống riêng tư thì chẳng ai lý
đến...Thì ra phe ta đã ngu như bò vì đã nuôi ong
tay áo, nuôi khỉ dòm nhà, nuôi những tên ăn cháo
đá bát, ăn cơm quốc gia thờ ma CS... Tóm lại,
những tên phản tặc. Ấy vậy mà bây giờ họ được
VC tiếp đón niềm nở, “vinh quang” đúng ý của họ,
cũng là lẽ tự nhiên ; nhưng họ cũng được những
người đã từng chạy bán sống bán chết tâng bốc,
“vẻ vang” nầy nọ, đây mới là lẽ không tự nhiên.
Kể ra đứng về một mặt nào đó thì họ khôn hơn
bò nhà tôi nhiều. Có ngu chăng là ai đó vẫn còn
mắc cái cố tật “thấy sang bắt quàng làm họ”,
nên cứ nhắm mắt lập bản phong thần phong thánh
cho vui vì cái mặc cảm phe ta chậm tiến. Thật ra,
bấy nhiêu người trong bản phong thần kia, so với
thiên hạ, chỉ là giọt nước trong hồ Leman. Ta cần
“vẻ vang” tí ti cho “đỡ xái”, vì khi nhìn lên ta
chẳng giống ai, mà lúc nhìn xuống chẳng ai giống
mình. Nhưng có vẻ vang vài ba người, hay vài ba
trăm đi chăng nữa, cũng không bằng làm sao xóa bỏ
cái “vẻ vang” của ngàn năm bị trị, bị chậm tiến
; tránh được cái họa đó đang lăm le tái diễn mới
là việc ưu tiên đáng vẻ vang. Nói thế chẳng phải
vì tự ti, mà sự thật là vậy. “Đừng nhìn xa vời
em ơi”, chỉ cần dòm qua hàng xóm để thấy rằng
người Miên đã bỏ người Việt khá xa trên quăng
đường dài văn hóa : từ ngàn năm trước, vua
Yashowarman đệ nhứt đã bắt đầu xây cất hoàng
thành Đế Thiên, Đế Thích, trong lúc đó phe ta còn
bị Chệt hiếp đến lần thứ ba, nằm mẹp chi địa,
ngất ngư con tàu đi! Nếu ta thử đem cung điện ở
Huế được gìn giữ trùng tu đặt cạnh bên đền vua
Angkor bị thời gian tàn phá, ta sẽ thấy gì nhỉ?
Có gì để “vẻ vang” không? Đến bao giờ ta mới có
được một công trình văn hóa tương đương với Đế
Thiên, Đế Thích? Năm 3000 chăng? Không có gì bảo
đảm... Gần đây hơn, trong dịp tháng tư 75, cũng
nhìn sang Miên để thấy Mít ta chẳng có gì để vẻ
vang : Thủ tướng Sirik Matak cùng toàn bộ gia
đình, và chính phủ đã từ chối đi “tìm tự do”
theo “lời mời” của Hoa Kỳ. Họ ở lại và biết
chắc là sẽ bị hành quyết, nhưng họ không bỏ dân,
bỏ nước, bỏ chạy. Khmer đỏ đã « xử lý » họ
sạch sành sanh. Trong lúc đó, Thiệu, Kỳ, Khiêm,
Minh, Huyền, Mẫu... đã làm gì? Cũng may là còn
có những vị danh tướng, cùng quân nhân các cấp
tuẫn tiết để cứu văn danh dự dân tộc. Người đời
có “vẻ vang” dân ta hay không là ở phong thái
những người lănh đạo trong lúc quốc gia nguy khốn,
và những di tích văn hóa còn để lại trong nước.
Hiện tại, trong nước ta còn lại gì đáng để thiên
hạ chiêm ngưỡng? Viện bảo tàng chiến tranh, phòng
triển lăm chiến thắng Điện Biên của VC chăng? Trong
thư viện quốc gia có bao nhiêu tác phẩm, bao nhiêu
tác giả đáng cho thiên hạ tìm đọc, phiên dịch,
học hỏi? Tôi hỏi cô cháu làm hướng dẫn viên du
lịch đưa khách đi xem cái chi? Nó đáp : Dạ, xem
vịnh Ha Long ! Tôi chỉ biết cười : Thôi được rồi !
Từ thưở tạo thiên lập địa, cái giống người vẫn
thế : háo danh và ham tứ khoái! Ham tứ khoái thì
tôi tán thành cả... tứ ngũ lục chi. (Xin mở cái
dấu ngoặc: Tứ chi gồm chân tay, ngũ chi thêm cái
đầu và lục chi thì thêm cái “cùi dìa”). Nhưng gì
gì thì cũng phải chừng mực, còn háo danh thì
chớ nên. Vì háo danh là chỉ dấu của một tinh
thần kém cỏi, một cột sống dẻo như cao su. Mà
tinh thần kém thì dễ... bị dụ, dễ bị sa ngã,
nhứt là dễ bị...hù. Một khi bị hù là mềm nhũn
ra và khòm lưng cúi đầu ngay, sức đâu mà chống
đỡ, gan đâu mà kháng cự. Háo danh không phải là
bản chất của bực trượng phu. Khi đã được danh
vọng rồi thì tự xem là đã đạt thành công ở
đời, và bằng mọi giá ôm chặt lấy hư danh. Ra
đường là có quyền nghểnh mặt nhìn lên, mặc áo
vạt trước dài hơn vạt sau v.v... Kể lể như thế
chẳng có ngoa đâu, cứ mở to mắt lên một tí là
thấy ngay : khi giao tiếp với những người đó sẽ
thấy là cái danh vị của họ quan trọng hơn cái
tên cúng cơm cha mẹ tặng cho. Tôi từng biết một
số người có tí địa vị lúc hưng thời, phách lối
đếch chịu được, chẳng biết trên đầu có ai; nhưng
khi gặp lại trong trại tù trông họ thảm não như
cọng bún thiu, cái khí “phách” ngày xưa biến đâu
mất, hiền hơn “ma soeur” nhiều lắm, nhìn lên đầu
thấy đâu cũng toàn cán ngố, chúng gọi một tiếng
là dạ rân, xưng “em” ngọt xớt, nghe mà điên tiết
lên được. Cái bản chất háo danh nó tệ hại thế
đó. Có những vị trưởng lão dù được “phong vương
lúc (miền Nam) hấp hối”, nhưng cũng cứ ôm chặt
lấy cái danh hư 100°/° đó xuống đáy mồ. Trông
thật là tội nghiệp làm sao ; có gì là “Vinh dự”
đâu khi được phong chức ngày trước để hôm sau đầu
hàng giặc cộng, phản bội xương máu chiến sĩ, đưa
toàn dân vào vòng khổ nhục? “Đi vào lịch sử”
kiểu đó mà cũng ham thì quả thật là ngu như bò.
Nhưng “thiệt thà” nhứt có lẽ chẳng ai qua ông “đại
tướng” có biệt hiệu “Pétain của VN”, ngoài
Nguyễn Cao Kỳ (Ông tướng nầy ngoài cái ngu ra còn
là một tay cao cờ về diện “mặt chai mày đá”).
Đã khờ khạo với cách xưng hô “người anh em phía
bên kia”, để rồi bị sỉ nhục ngay tại chỗ, nhưng
hình như ông “đại tướng” to đầu mà dại kia không
thấy, không hiểu gì cả nên sau đó vẫn tiếp tục
sống ung dung hài hòa trong nhục nhã trong dinh Hoa
Lan, trên đất Sàigòn. Để rồi cuối cùng chẳng
hiểu sao ông ta lại đủ can đảm vác mặt sang Paris
để chữa bịnh, và tiếp tục sống những ngày ô
nhục dư thừa còn lại ở... Hoa kỳ. Tham sanh úy
tử đến mức độ đó thì liệu còn có ngôn ngữ nào
để “vẻ vang dân Việt” nữa không? Lẩm rẩm mà cái
ông cựu thủ tướng của ông Thiệu lại khôn đáo để:
sau khi đã bàn giao quyền hành, ông âm thầm theo
Mỹ ra đi, và từ đó chả bao giờ ông chường mặt ra
nữa cả, lặng im thinh thích tận hưởng cái tài
sản đã “thu hoạch” được, biệt tăm biệt tích luôn;
bởi vì cái dĩ văng kia quả thật chẳng đáng được
nhắc đến, chẳng đáng được làm “lễ truy niệm”
nầy nọ, trông càng thêm nhục nhã. Thế nhưng, vừa
mới đây ông đại tướng tưởng là khôn kia ai dè lại
cũng ngu như bò : sau bao nhiêu năm im hơi lặng
tiếng, bỗng dưng chường cái mặt mốc ra tham dự Đại
hội toàn quân của Tập Thể Chiến Sĩ ! Tôi tự hỏi
quân nào đã mời ông ta dự hội? Thiệt là hết
nước nói, tối dạ từ kẻ mời đến người dự. Chỉ
cầu mong rằng không có một cái Mũ Xanh nào chui
đầu vào chỗ đó, chẳng thơm tho gì dù được “bơm”
nhiều thứ nước hoa. Trái lại đã nghe ngay mùi
thum thủm với lời khuyên đóng góp ý kiến với
Đảng để giúp Đảng xây dựng hoàn chỉnh hơn! Đã
mấy mươi năm qua mà một số người có ăn có học,
có khoa bảng, có địa vị cao mà sao vẫn còn ngu
như bò, chưa hiểu được CS và nhục vinh là cái chi
chi, kể cũng lạ. Riêng phần ông đại tướng kia thì
có lẽ cũng nên thông cảm vì “trẻ khôn qua, già
lú lại” như người xưa vẫn nói. Nhưng lúc còn trẻ
không biết ông ta đã có khôn chăng, hay đã lú từ
khi vào đời? Hay ông không lú cũng chẳng lẫn mà
chỉ giả dại vì một mưu đồ nào đó do ai đó nhờ
vả?
Dân ta chậm tiến thôi thì xí xóa, miễn chấp cũng
được; đằng nầy ông cựu tổng thống Phú Lăng Sa,
chớ chẳng phải tay thường đâu nghe, một
polytechnicien chớ không phải tơ lơ mơ, lại vừa
được bầu vào Hàn Lâm Viện Phú Lăng Sa nữa cơ,
tức là được thành người “bất tử”, immortel, ông
ta lại quên là mình đã tốt nghiệp Polytechnique
chớ không phải Normale Sup.. Nhưng vì muốn cho thiên
hạ biết mình tài cao, uyên bác trên mọi lănh vực,
văn võ song toàn, nên ông nhào vô văn đàn ; văn
chương là chuyện dễ, ai chả viết tiểu thuyết
được. Như bà Barbara Carland (phe ta có bà Tùng
Long) mà còn nổi tiếng trong thiên hạ, huống gì
ông. Thế là ông xắn tay lên viết chuyện tình...
lẩm cẩm. Cuốn đầu tay tựa đề Le Passage. Thiên hạ
tò mò tọc mạch, trong đó có tôi, nên cũng chịu
bỏ tí tiền còm ra mua sách về đọc. Đọc xong
tiếc của ! Tới đây thì chưa tác hại bao nhiêu,
chỉ hại vài người mất tí tiền tiết kiệm thôi.
Phần đông thiên hạ chỉ cười ruồi, thông cảm và
thương hại cho một người đã gần đất xa trời mà
vẫn không ngừng chạy theo danh vọng, dù đã có
quá nhiều rồi. Sau khi được vào Hàn Lâm Viện, ông
lại quyết chí lần nầy cuốn tiểu thuyết tình
cảm lâm ly thứ hai của ông phải được đời lưu ý,
vì ngoài bìa sách, dưới hàng tên của ông, sẽ có
thêm hàng chữ ghi rõ : De l’Académie française. Trên
bìa sách có được mấy chữ đó là đạt tới tuyệt
đỉnh danh vọng rồi đấy, nhứt là đạt được rất
nhiều euros vì sách sẽ bán như tôm tươi, sách của
Hàn Lâm Viện đâu phải đồ bỏ. (Bản thân tôi cũng
bày đặt viết tùy bút “ Souvenirs du Viet Nam” giao
cho một nhà xuất bản phổ biến, không một tí tham
vọng làm tiền hay làm tên, chỉ mong để lại một
chứng tích cho Tây đầm biết và hiểu, phải đóng
góp gần ba ngàn bạc và cứ nơm nớp lo bị lỗ
vốn!). Một khi đã lỡ mất tí tiền lần trước, thì
lần nầy phải theo lao để xem có khá hơn không, tôi
bèn lò mò ra hiệu sách bợ về một cuốn và bỏ
tí thì giờ ra đọc. Đọc xong tá hỏa tam tinh, lắc
đầu quầy quậy: chuyện chả ra gì lại có phần kém
đạo đức, dưới cái nhìn của riêng tôi. Câu chuyện
khởi đi giữa một ông tổng thống Phú Lăng Sa đương
nhiệm, góa vợ và nàng công chúa Anh Cát Lợi đang
chờ ly dị chồng. Bao nhiêu đó đã nghe mùi hấp
dẫn. Trong một bữa tiệc chính thức có nhiều quan
khách, nàng công chúa được ngồi cạnh ông tổng
thống. Nàng đẹp chi lạ, đẹp lé mắt luôn. Ông
tổng thống cầm lòng không đậu, bèn thò tay xuống
bàn tỉnh bơ rờ rẫm nàng công chúa. Nàng công
chúa đã không phản đối mà còn khoái tỉ cứ để
cho mò líp ba ga! Đã nghe mùi thum thủm ngay tức
khắc, làm tôi lên gà, và mơ màng nhớ đến đoạn
“Vân Tiên ngồi dựa bụi môn, chờ cho trăng lặn...”.
Ít ra Vân Tiên cũng chờ cho trăng lặn mới ra tay
mặc dù ngoài Nguyệt Nga ra, chẳng có ai xung
quanh; đàng nầy giữa mặt bá quan... Đúng là
người Âu, không gìn giữ, không ý tứ, cứ tự nhiên
như ruồi và không nghe thum thủm không ăn tiền. Quả
thật, con người tự do thái quá chẳng xa kẻ mất
dạy bao nhiêu. Sau nhiều lần gặp gở hẹn hò, cuối
cùng hai người chính thức lấy nhau, hết chuyện.
Dư luận tại Phú Lăng Sa cho là tác giả tự thuật
câu chuyện... mơ mộng giữa ông ta và nàng công
chúa quá cố Diana trứ danh. Chẳng có gì đáng
nói, dù về mặt văn chương cũng xoàng như Barbara
Carland, như bao nhiêu người khác. Nhưng không như
người khác ở chỗ tác giả ghi rõ ngoài bìa sách
“De l’Académie française”, mà rồi viết văn “như một
học sinh đệ tứ”. “Il écrit comme un élève de
troisième” đó là lời phê của nhà báo Alain
Duhamel trên Canal Plus. Hàn Lâm Viện chắc cũng xổ
mình nhưng biết nói sao. Kể ra thì ông cũng đã
từng viết dăm ba cuốn sách rất được một số độc
giả ủng hộ. Nhưng đó là những sách về chính
trị, xa lạ với sách về văn chương. Ông đã lầm
lẫn địa hạt nầy với địa hạt kia nên “thân bại
danh liệt” với lời phê gay gắt của nhà báo trên
Ti Vi.
Tính háo danh nó làm mờ lý trí, kể cả lý trí
của một ông tổng thống thông minh xuất chúng.
Đúng là: ông tổng thống nầy khôn 80 năm, dại một
giờ (ông đã ngoài 80) như người xưa hay nói. Ông
dại vì đã trót để cho thiên hạ thấy cái dỏm
của mình, một nhân vật đã đi vào lịch sử quốc
gia. Nếu có ai dễ dãi sẽ cho rằng ông đã già nua
nên sinh ra lảng tảng. Được vậy sẽ đỡ gánh nặng
tinh thần cho Hàn Lâm Viện biết bao.
Đó cũng là một gương sáng cho phe ta cùng soi.
Tấm gương đó cũng đã làm phai mờ đi phần nào
những chuyện không vẻ vang dân Việt. Những ngày
cận Tết hàng năm, mà lỡ có chuyện cần về quê
thì khó có vé máy bay rẻ để đi. Hàng trăm ngàn
người đã đặt mua vé từ nhiều tháng trước. Họ
bảo nhau “về quê ăn Tết vừa vui vừa rẻ lại vừa
ngon vừa ... sướng”. Vậy mà chẳng thấy ai khen
“vẻ vang dân Việt” hết. Tôi lại nhớ có người,
rất nhiều người, đã từng thề non hẹn biển rằng
ngày nào còn VC, ngày đó không trở lại VN. Khí
phách ngất trời, nghe nó khoái cái lỗ nhĩ làm
sao. Nhưng rồi thời gian xóa hết ... hận thù, bôi
sạch hẹn thề, ta lại kéo nhau rầm rộ “áo gấm
về làng”, vinh quang được chút nào hay chút đó.
Và hơn thế nữa, ta được “vẻ vang dân... tị nạn”
vì được VC cất nhắc lên hàng “Việt kiều yêu
nước, khúc ruột ngàn dậm”... Sau cuộc du hí, ăn
tràn họng, chơi đã trúng, trở ra hải ngoại lại
còn ngoạc mồm ra ca ngợi VN bây giờ ngon lành,
tiến bộ, giàu mạnh không như VNCH trước kia. Tôi
nghe mà cháng váng đầu óc, tưởng chừng như sắp
bị đứt gân máu não mà thác, không còn đủ bình
tĩnh để gọi họ ngu như bò hay ngu hơn bò. Nhưng ngu
như hay ngu hơn bò, tôi cũng đều thán phục ở họ
cái tài kiên nhẫn nhịn nhục chai lì trước sự
hống hách, hạch sách của nhân viên hải quan việt
cộng ở phi trường khi chúng xét hỏi thông hành
không có hay quên kèm đô la. Tôi “thán phục” nhứt
là những ai ngày xưa không dám ôm M16 bảo vệ quê
hương, bây giờ dư can đảm ôm em mười sáu vui thú
với những bé vị thành niên đang lâm cảnh khốn
cùn trên đất nước của chính họ mà họ đã xa gần
góp phần vào cảnh khốn cùn đó của đồng bào
họ. Lương tâm, lương tri của họ, họ vứt đi đâu
nhỉ? Hưởng thụ cuộc đời đến mức độ nầy thì
chẳng xa loài cầm thú là bao.
Những người “áo gấm về làng” nầy còn có chỗ
châm chế vì lời thề của họ từ đôi ba chục năm
qua, nay cũng đã quá “date”. Trái lại, tôi có
người quen, một cặp nghệ sĩ từng được ít nhiều
tên tuổi, chỉ mấy năm trước đây đã rất khí khái
trách hàng cha chú sao lại ôm đàn về VN ca hát
cho VC nghe, làm giáo sư âm nhạc viện chi cho VC
nhờ... Nhưng rồi năm bảy năm sau, cả vợ lẫn chồng
bồng bế nhau về VN ca hát cho VC vỗ tay kiếm chút
cháo. Thôi thì kiếp nghệ sĩ già nua quá lứa, bị
đám trẻ cạnh tranh, lấn áp, không còn ăn khách,
không làm ra tiền nhiều như xưa, nên đành muối mặt
kiếm cơm, cũng còn có chỗ thông cảm. Đàng nầy
lộn trở về Paris quảng cáo rùm ben cho VC thì
hết chổ tha thứ. Tôi tự hỏi chả lẽ cái miếng ăn
nó lại có thể tồi tàn, biến đổi, hạ thấp con
người đến như thế sao? Cái câu “Lành cho sạch,
rách cho thơm” hình như cũng ... quá “date” mất
rồi. Mong rằng những người nghệ sĩ trẻ sau nầy
sẽ chứng minh ngược lại.
Những người vì miếng ăn, những kẻ từng “trốn lính” nên dốt về CS, nay có quay về hợp tác với VC cũng còn có chỗ châm chước. Đàng nầy cái đám “hòa hợp”, cái đám “kêu gọi bầu cử tự do...” chẳng hiểu họ ăn cứt gì mà cũng ngu như bò thế ? Chẳng lẽ đầu của họ đã thành đầu tôm hết cả? “giống tôm cức lộn lên đầu”... Tự do đối với CS có khác nào ánh sáng mặt trời đối với Dracula. Có bao giờ những thằng ngu si dốt nát tạo được tài sản kếch xù, đạt đến quyền lực tối cao đâu. Muốn được thế, chúng nó chỉ có một con đường là giết người cướp của và “bạo lực cách mạng” để chiếm giữ quyền bính. Không có cách nào khác. Kêu gọi chúng nó từ bỏ bạo lực, từ bỏ độc tài, bầu cử tự do v.v... chẳng khác nào bảo Dracula ra giữa ánh sáng mặt trời sẽ đưa cổ cho hút máu. Dracula và VC sẽ không ngu như bò mà đi nghe lời xúi dại. CS mà chấp nhận tự do, dân chủ, chẳng khác gì Dracula chịu ra ánh sáng mặt trời : chúng nó sẽ tan xác ngay.
Từ chốn non cao rừng thẳm, đến các đại học trứ danh Massachusetts, Harvard, Berkeley... cái đám ngu như bò còn nhiều, nhiều như kiến cỏ, cuộc đời của VC và của XHCN trên thế giới sẽ còn tươi dài dài... Ngoại trừ ngày nào VC chúng nó vì mê ăn quá đỗi sẽ trở nên ngu hơn bò, ngày đó cuộc đời của chúng nó sẽ khốn nạn, và dân ta sẽ thoát khỏi cảnh lầm than vì ách độc tài CSBV. Cứt trâu để lâu cũng hóa bùn, sự đời chẳng có gì tồn tại mãi mãi. Những tinh tú, những thiên hà còn tan biến thành hơi, thành khói nữa là... Nhưng chớ vội mừng vì lúc đó đã có các thái thú Ba Tàu gốc Mít thay thế trị vì... Nếu cứ ngồi chờ sung rụng thì dân ta sẽ còn có nhiều thế kỷ để “vẻ vang” kỷ lục bị trị.
Liếc nhìn sơ qua tí ti “ thời sự” để thấy và hiểu vì sao dân ta “vẻ vang” về kỷ lục bị đô hộ : dân ta thông minh nhưng tối dạ ! Sau khi thấy và hiểu, mong rằng phe ta sẽ can đảm và khôn ngoan hơn một chút để thoát khỏi cảnh bị đè thêm một lần nữa. Lần nầy rất ư là nguy hiểm vì ngày nay kẻ thống trị lưu manh hơn xưa, có nhiều “bửu bối” hơn, nhiều phương tiện tinh vi hơn để đè kẻ bị trị không sao ngóc đầu lên nổi và cuối cùng “đồng hóa” kẻ bị trị, xóa tên cả một dân tộc trong sử sách...
Nhưng sử sách sẽ không quên chuyện Thiệu, Kỳ, Khiêm bỏ dân bỏ nước chạy trốn, và chuyện Minh, Huyền, Mẫu vui vẻ, ngây thơ, khờ khạo chờ bàn giao cho “người anh em phía bên kia”. Thật không thông Minh, không Huyền diệu, cũng chẳng gương Mẫu chút nào.
Ôi, vẻ vang
dân Việt !
Dân tôi thông thái, chẳng ngu đần
Tiếc rằng tối dạ chỉ lo thân
Học hành đỗ đạt đi làm mướn
Giúp kẻ xâm lăng thống trị dân
Hôm nay luồn cúi loài cộng phỉ
Ngày trước tiêu lòn bọn thực dân
Vận nước tang thương vì Thiên định?
Mệnh dân điêu đứng tại số phần?
Đông Vân.
Nguyễn văn Dõng.
Mùa Thu 2010.