Đông
Vân Nguyễn văn Dơng
Lật bật lại thấy Noël, rồi tết Tây và Tết ta ùn
ùn kéo tới. Năm nào cũng có con cháu về ăn Tết
với nội, với ngoại nhưng ít khi được đầy đủ vì
chúng nó đều ở xa có đến năm bảy giờ xe, không
cùng một vùng nên ngày nghỉ của học trò không
trùng nhau. Đó là chưa nói đến ngày băi trường
có trùng với ngày tết hay không. Vì đứa nghỉ
trước, đứa nghỉ sau nên Tết nào cũng thiếu vài
ba đứa, hễ có được mấy thằng cháu ngoại lại
thiếu vài thằng cháu nội. Sự đời chẳng mấy khi
được như mong muốn. Thôi thì có bao nhiêu vui bấy
nhiêu, còn hơn những năm nằm chèo queo trong
“trường cải tạo” với nỗi khắc khoải bên lòng
không biết có được toàn mạng để về gặp lại gia
đình hay chăng, hay những năm tháng “lang thang tóc
mây cài” với tiểu đoàn Quái Điểu của Cọp Biển
trên vùng sình lầy Đầm Dơi, Cái Nước, U Minh...
“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!”, còn chăng
là kỷ niệm những chiều dừng quân ven rừng, các
đệ tử đứa lo nấu nước sôi đổ cơm sấy, đứa lấy
thịt ba lát cho vô nồi thêm tí nước mắm (nếu có)
hoặc tí muối, hâm nóng rồi cùng nhau dằn bụng
cho chắc dạ. Tìm chỗ mắc được võng, giăng được
mùng lên trên và sau cùng là cái Poncho lên trên
hết, xong xuôi là cũng tới giờ “giới nghiêm”: tắt
hết củi lửa, kể cả lửa trên đầu điếu thuốc lá,
nếu không muốn “ăn pháo” của VC về đêm.
Thay bộ đồ khô cất kỹ trong ba lớp bao nylon, đem bộ đồ ướt sủng trong ngày phơi lên cành cây cho ráo bớt để sáng sớm hôm sau lại mặc vào, xong xuôi trèo lên võng, chui vào túi ngủ nằm im nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên Poncho, tâm hồn lơ lửng quay về “cố quận” với vợ con. Nghĩ phận mình rồi thương cho vợ con và bao nhiêu đồng đội, bao nhiêu thanh niên đang bỏ cả tuổi xuân cùng cuộc sống yên vui để “đi vào nơi gió cát”. Thương nhứt là các chinh phụ ở lại hậu phương một mình tả xông hữu đột để nuôi dưỡng đàn con thơ dại cũng với nỗi khắc khoải bên lòng không biết mấy ông chinh phu có “ trở về bằng chiếc băng ca, trên trực thăng sơn màu tang trắng” ? Nào ai biết được tương lai, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”? Từ xưa chiến chinh đồng nghĩa với chia ly, cách biệt. Tính sơ sơ cuộc cách biệt trong đời quân ngũ của riêng mình coi vậy mà cũng trên một thập niên! Bây giờ được sống trong thanh bình an lạc, hình dung lại mười năm bỏ nhà bỏ cửa phiêu diêu...gần miền cực lạc bỗng nghe ớn xương sống!
Cũng có những lần hội ngộ trọn bộ không thiếu vắng đứa con, đứa cháu nào, thật là hiếm quí vô cùng, niềm vui thật lớn, tưởng là vẹn tròn nhưng rồi cũng có chút gì vướng mắc, đúng như luật âm dương, trong dương luôn có âm và trong âm luôn có dương, không làm sao có được gì trăm phần trăm cả. Ý Trời đã thế, ta đành chịu vậy, áo mặc sao qua khỏi đầu? Lòng Trời ai thấu? Thiên cơ bất khả lậu mà lại... Nói vậy là chỉ nói với Mít ta mà thôi, chớ như duy vật biện chứng pháp thì làm gì có chuyện Ông Trời với Tạo hóa... Vạn vật đều xuất phát từ cuộc nổ vỉ đại, Big Bang, các tinh tú, thái dương hệ và vạn vật đều từ các nguyên tố tự động kết thành. Nghe qua rất có lý vì tất cả các tinh tú, các thiên hà đều đồng loạt bung ra ngày càng xa nhau, tựa khi trái lựu đạn nổ các mảnh tung ra tứ phía. Có điều là cái gì đã có, đã “hiện hữu” từ lúc ban sơ, như trái lựu đạn, để tạo ra cái Big Bang nguyên thủy? Chả nghe ai nói tới cả, cũng dễ hiểu thôi, bởi vì khi đụng đến vấn đề đó tức khắc sẽ rơi vào cái vòng lẩn quẩn chẳng làm sao thoát ra được. Mà nếu bị lúng túng lùng tung trong cái vòng lẩn quẩn, cái “cercle vicieux” đó thì cái thuyết duy vật có nguy cơ ngã đổ, và phe duy tạo hóa, créationisme, sẽ thắng thế có nghĩa là phải nhìn nhận có “ông Trời”, có Đấng Tạo Hóa và từ đó có tôn giáo, điều mà CS duy vật không hề chấp nhận. Nói theo ông bà của ta thì con người kiểu cộng sản duy vật đã từ đất nẻ chui lên. Nhưng Darwin thì khẳng định là con người từ con khỉ đột chui ra. Thế mới vui. Cứ thấy mấy con khỉ đột dáng dấp giống ta, và ta cũng lông lá giống khỉ đột, bèn bắt quàng làm họ, liền suy ra là do theo luật tiến hóa mà khỉ kia từ từ đứng thẳng người lên rồi biết nói, biết cười ruồi, cười duyên, biết “lao động” vân vân... Nhưng cái giống người ngày nay, đặc biệt trong đám Mít, hình như đang theo một đà tiến hóa ngược chiều để thành ngợm, lưng cứ lôm khôm, chủ ra hiệu là nhảy múa lưng tưng như khỉ mắc phong, nhe răng đen mã tấu ra cười nham nhở, nói năng tíu tít nghịch thiên, nghịch địa, chẳng ra gì, chỉ xấu mặt danh xưng giáo sư nầy, tiến sĩ kia, nghệ sĩ nọ, đồng chí lớn, đồng chí nhỏ... Trông cũng vui vui. Trong thiên hạ, triệu thằng ngu chưa có được một thằng khôn, chả trách cái lũ tam vô và bọn “bợ đít” làm trò khỉ không biết mắc cở, cốt sao có chút hư danh và tí tiền còm để nuôi mập cái thây giá áo túi cơm. Tâm hồn của họ... ơ, ơ họ có hồn có tâm mẹ gì đâu mà nói.
Đâu chỉ Mít ta mới có người vô tâm, nhìn lại cái “quê hương thứ hai” nầy sẽ thấy thứ đó còn nhiều gắp bội. Ông bà ta ngày xưa hay “thối mồm” rủa mấy tên nghịch tử tam vô là thứ từ đất nẻ chui lên, không cha, không mẹ, cũng như bọn cộng nô chúng nó đã gọi “lính thủy đánh bộ” chúng tôi là “con Dì Phước” vì xem cái chết như pha. Mấy ổng mấy bả đâu dè “lời nguyền rủa” đó nay đã “thành hiện thực” ! Các nước « điên tiến” ngày nay đều có ngân hàng “tinh trùng”. Bà nào hiếm muộn, hay chỉ quá muộn đến “không thể mang” được nữa, vì quá ham chơi ngày tháng qua, tuổi già tới mà không hay, chỉ cần xin tí hạt giống, chả cần biết là của ai, miễn sao có được tí nhau cưng chơi với thiên hạ cho cuộc đời về chiều đở cô quạnh, thay vì nuôi chó, nuôi mèo vuốt ve, nựng nịu như...người yêu.
Thân thế và tương lai của đứa bé không cha từ thuở tạo hình không phải là vấn đề đáng lưu tâm. Đó là chưa bàn đến chuyện quí bà sống chẳng bao lâu rồi ngủm củ tỏi bỏ nhóc con lại bơ vơ cho nhà nước nuôi. Cứ như cái đà “điên tiến” nầy thì chẳng bao lâu trên quả địa cầu, hay ít ra trên một phần trái đất, sẽ chỉ có toàn thứ một nửa từ đất nẻ chui lên. Về phần các ông đã sẵn sàng “sóc lọ cho tinh” cũng đáng trách không kém. Họ làm như tinh trùng của họ khi kết hợp với trứng của ai kia sinh ra một con người, con người đó không có gì liên cang tới họ cả. Vô tâm, vô tri, vô giác, vô luân... đến thế là cùng. Ấy vậy mà họ lại vô cùng tự hào về thành tích văn minh vựơt bực đó. Thật là “phi ni lô đia”, hết nước nói. Enfin, science sans conscience... Đó là chuyện của mấy bà sồn sồn chơi quá đến quên có con. Trái lại mấy cô còn son trẻ, nước nôi tràn trề thì nhứt định không chấp nhận cho ai chui vào đống đô trong bụng cả, chui vô chui ra thì được. Nhưng vẫn chưa hết, họ còn làm luật buộc các bác sĩ phải phá thai cho các cô, các bà chơi đến mắc củ trướng. Khi bụng sình lên chang ảng, trở ngại không chơi thoải mái được nữa nên họ bắt bác sĩ phải móc cái của nợ ấy ra quẳng vào sọt rác, như quẳng một cục thịt thừa, cục nợ! Mụ đàn bà làm ra cái luật cho phép giết người trong bụng mẹ nầy lại rất được đời trọng vọng ! Còn gì để nói nữa không? Ôi, điên đảo cuộc đời. Nghĩ cho cùng đó chỉ là những hậu quả tất nhiên của cuộc “cách mạng tháng 5/1968” trên đất nước Phú Lang Sa nầy. Họ gọi là cách mạng nghe cho nó oai, cũng như gọi tướng De Gaulle là anh hùng giải phóng quốc gia vậy,(l’arbre qui veut cacher la forêt), chứ thật ra đó chỉ là cuộc nổi loạn của một nhóm thanh niên, sinh viên ham chơi bời phóng túng mà luật lệ xã hội tôn giáo quá gò bó đối với họ, nên họ bùng lên “phá xiềng xích” để được tự do luyến ái. Cũng chả có gì lạ, người Pháp trứ danh là thứ vô kỷ luật, “indisciplinés”, đam mê tự do đến mức bịnh hoạn. Hậu quả là luật giết người từ trong trứng nước và bịnh Sida lan truyền nhanh chóng gây tai họa cho vô số trẻ con vô tội. Cái tật vô kỷ luật còn cho thiên hạ thấy cảnh dân Tây xuống đường hằng ngày với trăm ngàn lý do, mà lý do quái lạ nhứt là mấy tên trộm cướp bị cảnh sát rượt, chạy xe đâm vào góc cây mà chết, thế là bà con dòng họ kéo nhau xuống đường đòi trừng trị cảnh sát ! Có sống trong cái xã hội tự do bịnh hoạn, văn minh vật chất mới biết đá biết vàng.
Ngày xưa khi còn ở miền Nam, nhìn sang trời Âu, mơ được như Tây. Mong cho con học thông ngoại ngữ, ít ra cũng rành tiếng Anh, tiếng Pháp để dễ bề hội nhập, học hành tiến thân. Bây giờ đã nhập cuộc rồi lại muốn dội ngược trở ra ! Xưa lo con không rành tiếng Tây, tiếng Mỹ, nay buồn vì con không rành tiếng Việt! Ôi, oái oăm cuộc đời.
Tiến hóa là luật của thiên nhiên, nhưng chỉ đặc thù cho từng loài, từng giống. Nòng nọc sẽ tiến hóa thành cóc nhái chứ không thành trâu bò được, chuyện cá hóa long chỉ là chuyện hoang đường, biểu tượng. Người da đen ngàn năm da vẫn cứ đen. M. Jackson có bỏ tiền muôn bạc ức cũng không ai làm cho hắn trắng da ra được và khỉ thì chẳng làm sao thành được người, mà người có muốn thành khỉ thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi. Loài VC một số thành ngợm, đa số thành ếch ngồi đáy giếng. Darwin đã “cầm nhầm” một bộ xương nào đó rồi hô hoán lên, có thể là bộ xương người thật của những thiên niên kỷ rất xa xưa. Vào thời kỳ sơ khai cổ đại đó con người rất có nhiều triển vọng mang bộ xương cách trí giống của loài khỉ đột nên ông ta lầm tưởng.
Người tây âu họ rất nhiều trí tưởng tượng và rất tò mò tọc mạch, chuyện gì cũng chọc cái mủi lơ vào, nhờ vậy mà họ khám phá ra nhiều chuyện mới lạ giúp họ “làm chủ thiên nhiên” và tiến bộ hơn thiên hạ. Họ vẽ vời ra nhiều lý thuyết có khi rất viển vông, nhưng họ cũng lại rất thực tế, không như Mít ta lý thuyết viễn vông chẳng có mà thực tế cũng không nốt, cứ mơ mơ mộng mộng, lửng lơ con cá vàng, âm chẳng ra âm, dương chẳng ra dương. Cũng may mà tuy vậy nhưng cũng ít người mắc phải cái “bịnh lại cái” của người tây âu văn minh. Bề ngoài trông họ to con lớn vóc, mà cái tinh thần hình như chẳng mấy khi có được kích thước tương đương. Người khổng lồ nhưng nhút nhát, như voi mà sợ chuột vậy. Họ gọi những người đó là “géants aux pieds d’argile”. Họ thích ăn chơi, nhưng lại sợ lọt xuống địa ngục, họ lại không đủ sức để tự cứu, lỡ có tội thì tìm Cha xin tha một phát là hết tội, lo gì. Được bảo đảm như vậy cũng sướng cuộc đời. Tâm lý của họ rắc rối vô cùng, rắc rối đến lạ lùng đối với Mít ta, lạ lùng đến Mít ta không ngần ngại cho là họ “mad”. Ta cũng nên thông cảm cho họ, trong máu của họ có rất nhiều hồng huyết cầu “thu hoạch” từ nhiều giống dân khác nhau qua rất nhiều đời, nào là Ba Lan, Anh, Ý, Bồ, Tây Ban Nha, Đức, A Rập v.v... Mà nghĩ cho cùng thì họ “mad” thật. Cứ trông cung cách nói chuyện của họ cũng ớn rồi. Họ nói không kịp nuốt nước bọt, hai tay lại quơ tùm lum - đứng gần bên họ có khi vỡ mồm, họ lo người nghe không hiểu ý của họ, thoạt trông tưởng họ đang gây lộn, mắt họ trợn trừng, đầu lắt lư trông phát sợ, người cũng lắt lư như ngồi phải lửa... Trông họ ai chẳng bảo họ đang “lên cơn”? Họ đi ào ào như nước sôi đổ đít. Làm việc chung với họ lúc nào cũng phải cẩn thận trông chừng bởi vì họ cầm kim, cầm kéo trên tay nhưng chẳng bao giờ lưu ý đến người chung quanh. Kim họ chích bịnh nhân lở lụi trúng mình thì mắc Sida không biết lúc nào. Họ thuộc giống người thần kinh nằm ngay dưới da, les nerfs sont à fleur de peau, rất dễ giận, dễ cười, dễ khóc. Ranh giới giữa cái bình thường và cái bất bình thường ở họ thật rất khó phân biệt. Riêng cái tính nhân đạo của họ cũng đủ làm Mít ta điên đầu, những tên tù vì tội giết người cướp của, bắt cóc bàn bà, trẻ em hăm hiếp rồi thủ tiêu... làm loạn trong nhà giam đòi phải có chỗ ăn, chỗ ở đúng tiêu chuẩn. Và nhà nước đã xây cất nhà tù hết sức “hạp vệ sinh” cho bọn đó. Trong khi những người “tử tế” lo chí thú làm ăn, nộp thuế lại không có nhà để ở, phải lấy chiếc xế hộp làm nhà, có kẻ phải ngủ ngay trên hè phố, vậy mà chẳng ai có giải pháp nào giúp đỡ. Cái lòng nhân đạo bịnh hoạn đó chỉ có trong xã hội “điên tiến”.
Họ lại chẳng biết đến chuyện âm dương, hay đúng hơn họ chỉ biết có âm dương trong khoa học lý hóa mà thôi. Có lẽ vì thiếu hiểu biết về âm dương ngũ hành nên họ không xem những kẻ “homosexuel” là những người mắc bịnh dục tính, sexualité pathologique. Dục tính của họ bịnh hoạn vì ai cũng thấy rõ rằng ông mê ông, bà mê bà là phản tự nhiên, mà cái gì phản tự nhiên là bịnh hoạn. Loài súc sinh còn biết trống mái tìm nhau để bảo toàn nòi giống. Dê xồm găp dê xồm là chỉ để cụng nhau chí chóe hầu giữ độc quyền các nàng dê cái, có bao giờ dê xồm lại nhảy đực dê xồm đâu, chỉ có con người là lu bu.
Những kẻ “homo” chẳng chịu mình bịnh hoạn lại còn xuống đường đòi được cưới hỏi nhau như bất cứ cặp trai tài gái sắc nào trong thiên hạ, họ viện lý do hết sức khôi hài quyền được khác biệt, droit à la différence. Họ ăn nói nghe ngộ nghĩnh thật, sự khác biệt nào phải là một cái quyền, nó là một sự kiện tự nhiên, hiển nhiên. Từ đó họ đòi được quyền hưởng mọi trợ cấp, được mọi người chấp nhận và tôn trọng v.v... Và chế độ dân chủ vượt bực hiện đại sẵn sàng ra luật trừng phạt kẻ nào phỉ báng, chế nhạo, phân biệt, kỳ thị... những người bị bịnh dục tính. Xã hội văn minh thật có nhiều chuyện lạ, rất kỳ lạ, ta không hiểu nổi.
Ta không hiểu vì quên cái nguyên tắc của dân chủ thiểu số phục tùng đa số. Cứ theo nguyên tắc nầy thì cái đám Gay Pride khá đông, số phiếu cũng đáng kể, mà chính phủ thì chả có bao nhiêu người nên phải phục tùng đa số Gay Pride để còn hy vọng tại chức thêm một nhiệm kỳ. Xã hội có bị họ dần dà đưa vào ngơ cụt, luân thường đạo lý có tan hoang, họ chẳng bận tâm. Không có gì quan trọng hơn cái ghế họ đang ngồi.
Cái yếu điểm nguy hiểm của nền dân chủ là chiều hướng mị dân vô biên giới. Chuyện mị dân đồng tình luyến ái chưa hại gì ai, nhưng chuyện nhân đạo bịnh hoạn của những nhà làm luật và áp dụng luật xứ nầy thì đưa đến chổ chết người hiền lương một cách hết sức tức tửi. Những tên đầu trộm đuôi cướp bắt cóc đàn bà, đánh đập, hảm hiếp đã đời rồi đập đầu quăng xác vào rừng. Phạt chúng chung thân nhưng vì phải nghĩ đến tương lai của chúng nó, nên mươi mười lăm năm sau thả chúng nó ra, chỉ buộc chúng đeo chiếc vòng điện tử ở chân để kiểm soát không cho ra khỏi khu trú ngụ. Chúng nó đâu cần đi đâu xa, quanh nhà cũng có đủ “mồi” để chúng nó tái diển trò giết người. Người Âu nhân đạo “ghê lắm” , họ sẵn sàng nhắm mắt binh vực những ai có bề ngoài nghèo khổ, bị “nhà giàu ăn hiếp”... Việt Nam đã một phần lớn nhờ lòng nhân đạo đó mà miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nhưng biết sao, nhân vô thập toàn...
Theo thuyết âm dương, trong người chúng ta có đủ cả âm lẫn dương. Thanh niên thì “dương thịnh, âm suy”, thiếu nữ thì ngược lại “âm thịnh dương suy”. Trong mình anh chàng bị chứng “homo” thì âm quá mạnh và dương chẳng có bao nhiêu, nên anh ta tuy mang xác đàn ông (dương), mà tâm tính lại đàn bà (âm), do đó, đúng theo luật âm dương, họ chỉ khoái đàn ông thôi, họ chê đàn bà là phải, nhưng kẹt cái bề ngoài đàn ông của họ nên chuyện họ “ăn ở” với nhau trông nó quái đản, chướng tai gai mắt, nếu không muốn nói là bẩn mắt. Nhưng vì cái xã hội mị dân quá trớn với bộ hình luật phạt ai dám lên tiếng chê bai cái đám Gay Pride đồng tình luyến ái, nên có những hệ quả rất tự nhiên mà chẳng mấy ai thèm hiểu.
Người biết chuyện chỉ cười thầm, nói ra điều phải chỉ thiệt thân. Gần đây ai cũng bắt cười về chuyện hội bảo trợ Sida công kích nhóm Téléthon thu quá nhiều tiền mà hoang phí, trong khi đó thiên hạ chỉ cho họ có 1/10 số thu của Téléthon. Có người cho là may lắm rồi, lại chẳng biết thân, có một khúc tòn ten chưa đầy hai tấc mà cũng không làm chủ được nó, bạ đâu chơi đó để mắc phải Sida rồi kêu la cầu cứu; Thiên hạ cho tiền là vì còn nghĩ thương những kẻ vô tội mà bị cái đám cà chớn truyền bịnh, bằng không thì đừng ḥng xin được một xu ten, đã chẳng biết thân lại còn kêu ca. Khi đức Giáo Hoàng Jean Paul II kêu gọi giảm bớt chơi bời phóng túng hầu tránh bị truyền bịnh, đám cà chớn kia đã không tiếc lời sỉ vả Giáo Hoàng hủ lậu. Họ thích.. lậu hơn là đạo đức của giáo hoàng.
Trong cái xã hội mà tự do cũng bịnh hoạn nầy, người khôn sẽ ngâm câu “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” để hai cái lỗ nhĩ không phải ngày ngày nghe những lời lẽ phi lý, đôi mắt không phải nhìn những cảnh loạn luân, thấy thiên hạ đi chổng cẳng lên trời...
Thoát trần
một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
(Cung oán)
Thấy gần, nghĩ xa rồi đâm ra lo sợ cho con cháu đang trầm luân trong cái xã hội “điên tiến” nầy. Không phải chỉ có sợ chúng nó lâu ngày bị nhiễm cái điên khùng, mà sợ nhứt là rủi ro bị thứ khùng điên hăm hại. Còn một mối lo xa nữa là đám cháu, đám chắt rồi sẽ vuột khỏi tầm tay. Biết rằng không ai có đủ khả năng cầm giữ bất cứ gì trước sức cuốn hút của dòng thời gian, nhưng sao vẫn cảm thấy buồn lo. Ngồi nhìn mấy đứa cháu nội ngoại lâu ngày gặp lại nhau nô đùa cười nói tíu tít mặc dù có đứa nầy chẳng hiểu đứa kia nói gì, lòng già thật vui, thật ấm. Đã thoát ra khỏi thiên đường cộng sản, nay không còn lo tù đày, đói rách, lại có con hiếu thảo cháu khôn ngoan liệu có niềm vui nào lớn hơn chăng. Nhưng chẳng vui được trọn vẹn cũng vì cái lo nó luôn quấn quít bên lòng. Vui vì thấy con cháu được lớn lên trong vùng trời tư do, no đủ, buồn vì chỉ mới có đến thế hệ thứ ba thôi mà cháu trong một nhà ngôn ngữ đã khác biệt.
Mấy đứa sống ở Anh, Mỹ, Úc gặp nhau không có vấn đề, nhưng khi hợp cùng những đứa sống ở Đức, Pháp, Đan Mạch, Ý... thì y chan như những người ngoại quốc gặp nhau trên vùng đất du lịch, chẳng ai hiểu ai. Tuy cùng một gốc Mít, nhưng không hề biết tiếng Mít, nên những đứa cháu kia chẳng làm sao trao đổi với nhau được. Cũng may là các jeux vidéo bây giờ cùng chơi với nhau mà không cần nói năng chi cả.
Đó chỉ là mặt chìm của vấn nạn. Mặt nổi cũng vậy thôi, chẳng khả quan gì hơn. Đứa nào cũng có hai dòng máu trong người, nên mặt mũi của chúng chỉ phản phất vài nét Mít, nhìn thoáng qua chẳng mấy ai nhận ra. Bạn bè lỡ có gặp chúng nó ngoài đường sẽ chẳng làm sao biết là cháu nhà mình, mà ngay cả chú bác của chúng nó còn ở bên nhà cũng chả làm sao nhận ra chúng nó là người trong họ.
Chỉ mới 1/3 thế kỷ mà viễn ảnh tương lai đã ra chiều không sáng sủa theo ý muốn. Cái gốc Mít tuy còn sờ sờ ra đó, nhưng đã bắt đầu rụng hết rể, rể con, rể cái, rể tòn ten. Thêm đôi thế hệ nữa là xong hết mọi việc, cái gốc Mít kia rồi cũng tan biến vào hư vô, sẽ chẳng còn ai để nhắc đến nữa. Hậu duệ chỉ còn là những người Mỹ gốc Mít, người Anh gốc Mít, người Úc gốc Mít, người Đức gốc Mít... Rồi thêm vài thập niên, vài thế kỷ nữa sẽ có vài chục triệu người Tàu gốc Mít ngay trên quê hương Việt Nam ! Sau nầy, nếu vạn bất đắc dĩ xẩy ra một cuộc đại chiến giữa Đông Tây, làm sao tránh khỏi có những người tây âu gốc Mít quay về Á Châu bắn giết nhau với những người Tàu gốc Mít? Liệu rồi có còn người Việt Nam nào nữa để đọc truyện Kiều và “giải phóng dân tộc” chăng?
Chống tay
ngồi ngẫm sự đời
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo câm...
(Cung oán)
Đông Vân Nguyễn văn Dõng.