MX Trần Vệ
Trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, khi nói đến các Tiểu đoàn,
chúng ta thường hình dung một địa danh gắn liền như Tiểu đoàn 1 với
Hoàng Diệu Rừng Sát năm 1955, Tiểu đoàn 2 với Ðầm Dơi, Tiểu đoàn 3
với Ba Gia, Tiểu đoàn 4 với Bình Giả... Cũng như trong Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa, khi nhắc đến binh chủng Mũ Xanh oai hùng Thủy Quân Lục
Chiến thì từ quân đội cho đến dân chúng, ai cũng nghĩ đến chiến
thắng Quảng Trị. Bởi vì ở những địa danh ấy, các đơn vị Thủy Quân
Lục Chiến đã để lại những chiến tích lừng lẫy. Tuy nhiên họ cũng gởi
lại nơi đó những kỷ niệm anh dũng có, thương đau có, kèm theo những
mất mát không thể tránh được khi giao tranh đụng độ giữa lằn tên mũi
đạn.
Cuộc đời binh nghiệp của tôi cũng vậy, gắn liền với 2 đơn vị: Tiểu
đoàn 4 Kình Ngư và Tiểu đoàn 5 Hắc Long. Ở Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục
Chiến, tôi từ một thư sinh tốt nghiệp Sĩ quan Ðà Lạt bước vào đời
lính ở đó Tiểu đoàn 4 như một bà mẹ, đã dẫn dắt tôi, hướng dẫn tôi
từng bước một, từ Trung đội trưởng, Ðại đội phó, rồi Ðại đội trưởng
với những kinh nghiệm thực tiễn. Sau 8 năm sương gió, tôi rời Tiểu
đoàn 4 với lòng tự tin của một kẻ trưởng thành, về làm Tiểu đoàn phó
Tiểu đoàn 5 Hắc Long để hướng dẫn các Ðại đội đối đầu với địch trong
một trận chiến ngày càng khốc liệt, gian nan và nguy hiểm hơn. Ðã
từng một thời gắn liền với Tiểu đoàn 4 nên tôi không thể nào quên
được trận chiến Bình Giả, nơi các chiến sĩ Kình Ngư đã phải đổ bao
mồ hôi, máu và nước mắt để đem lại chiến thắng vang danh này.
Chúng tôi gồm: Võ Thành Kháng Thiếu úy Thủ khoa khóa 19 Ðà Lạt,
Nguyễn Văn Hùng tự Hùng Râu, Hồ Ngọc Hoàng, Thái Bông, Ðỗ Hữu Ái, và
Trần Vệ là 6 sĩ quan Ðà Lạt về trình diện Liên đoàn Thủy Quân Lục
Chiến tại Bộ Tư lệnh Lê Thánh Tôn vào một buổi sáng tháng 12 năm
1964. Với dáng điệu lính mới tò te, chúng tôi súng sính trong bộ
quân phục kaki vàng, đứng chờ trình diện Trung tá Bùi Thế Lân, Tham
Mưu trưởng Liên đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Bước vào phòng Tham mưu, Võ Thành Kháng trả bài đúng cơ bản thao
diễn Ðà Lạt, hô nghiêm nghỉ rồi chào Trung tá Tham mưu trưởng rất
oai phong. Trung tá Lân gật gật đầu có vẻ hài lòng, sau khi điểm qua
từng người, hỏi thăm và dặn dò, ông nói tiếp:
- Các anh được chuyển về Tiểu đoàn 4, hậu cứ đóng ở Vũng Tàu, nhưng
Tiểu đoàn đang hành quân ở Dĩ An, Biên Hòa. Phòng 4 sẽ có phương
tiện đưa thẳng các anh về trình diện Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn Hành quân.
Rời khỏi Bộ Tư Lệnh Liên đoàn ở trại Lê Thánh Tôn, chúng tôi đến Bộ
chỉ huy Tiểu đoàn Hành quân thì thấy không khí ở đây có vẻ xôn xao.
Thì ra Tiểu đoàn đang chuẩn bị để ngày mai chuyển quân. Lúc bấy giờ
Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn Văn Nho, người gầy cao, và Tiểu
đoàn phó là Ðại úy Hoán, dáng to lớn, mặt đỏ au. Y sĩ trưởng là Bác
sĩ Trương Bá Hân. Ðại đội trưởng Ðại đội 1 là Trung úy Trần Ngọc
Toàn, Ðại đội trưởng Ðại đội 2 là Trung úy Ðỗ Hữu Tùng, Ðại đội
trưởng Ðại đội 3 là Thiếu úy Trịnh Văn Huệ, Ðại đội trưởng Ðại đội 4
là Trung úy Nguyễn Ðằng Tống.
Hùng râu và Võ Thành Kháng về Ðại đội 2, Hồ Ngọc Hoàng và Ðỗ Hữu Ái
về Ðại đội 1, Thái Bông về Ðại đội 4 và tôi về Ðại đội 3. Trịnh Văn
Huệ là sĩ quan Ðà Lạt khóa 17, là khóa đã huấn luyện khóa 19 chúng
tôi ở trong trường Võ bị cho nên khi thấy tôi nghiêm chào, ông cười
và nói:
- Thôi được, ở đây khỏi chào với cổ 3 ngấn. Sao đi phép có vui vẻ
không, và sẵn sàng hành quân chưa ?
- Dạ thưa Thiếu úy, đi phép được 1 tháng. Sáng nay trình diện Bộ Tư
lệnh xong là được đưa ngay xuống đây.
- Tiểu đoàn sắp di chuyển vào ngày mai, lệnh cấm trại 1OO% cậu thay
quần áo, lấy đồ cần dùng, còn tất cả gửi ở Hậu trạm, khi nào Tiểu
đoàn về hậu cứ hãy lấy.
Quay qua một sĩ quan đang ngồi ở bàn bên, có lẽ đang phát lương cho
lính, Trịnh Văn Huệ kêu:
- Ê, Lịch có sĩ quan mới về, qua đây tôi giới thiệu.
Tôi bắt tay và được biết Hồ Quang Lịch là sĩ quan khóa 12 Thủ Ðức
đang mang cấp bậc Thiếu úy. Sau này chúng tôi gắn bó với nhau rất
thân thiết, cho nên khi Lịch giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5
Hắc Long, anh cố xin cho tôi về làm Tiểu đoàn phó là vì vậy. Lúc đó
có một sĩ quan bước vào, Huệ giới thiệu với tôi Thiếu úy Phạm Hữu
Hoàng Sơn, khoá 9 Thủ Ðức, là Ðại đội phó. Thiếu uý Sơn mới đi phép
về, anh thân mật bắt tay tôi. Một sĩ quan khác dáng nhỏ nhưng nhanh
nhẹn, sau khi lãnh lương chạy lại bên Sơn nói:
- Thiếu úy đi phép về có quà gì không ?
Phạm Hữu Hoàng Sơn cười hề hề:
- Quà cái con khỉ mốc, tao vừa dứt phép định về Vũng Tàu lấy một mớ
đồ nhưng Bộ tư lệnh không cho, bảo phải ra Tiểu đoàn hành quân ngay,
cho nên có kịp làm gì đâu.
Sơn quay qua giới thiệu với tôi:
- Ðây là Chuẩn úy Lâm Xuân, Trung đội trưởng Trung đội 3.
Tôi với Lâm Xuân sau này trở thành cặp bài trùng ở Ðại đội 3 cho đến
ngày tôi đi du học Hoa Kỳ năm 1968. Ngày hôm sau, Tiểu đoàn ra lệnh
các Ðại đội sẵn sàng tại chỗ, phát lương khô 5 ngày, đợi xe đến là
di chuyển. Hồ Quang Lịch từ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn về hí hửng cầm tờ
giấy phép và nói:
- Tao đi phép đây, mới gặp mày, chưa kịp nhậu 1 chầu... Thôi để về
Vũng Tàu tao sẽ khao mày.
Ðược biết Hồ Quang Lịch là 1 tay nhậu hũ chìm, uống rượu như uống
nước lã, chả bao giờ say. Tôi cũng có máu rượu trong người nên về
sau anh khoái tôi ở chổ đó.
Ðại đội trưởng đi họp ở Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn về họp các sĩ quan Ðại
đội phó và Trung đội trưởng để ban lệnh hành quân. Bây giờ tôi mới
biết thêm Chuẩn úy Nguyễn Văn Nư, Trung đội trưởng Trung đội 1 và
Trung sĩ I Thạch Biên xử lý thường vụ Trung đội 2. Trịnh Văn Huệ chỉ
vào bản đồ giải thích:
- Tiểu đoàn mình sẽ di chuyển bằng xe về Phước Tuy, sau đó di chuyển
bộ đến Bình Giả, cách Bà Rịa 5 cây số về phía Tây. Ở đây Biệt Ðộng
Quân đang đụng địch, ta có bổn phận vào tiếp ứng cho bạn.
Sau khi ban lệnh hành quân, Ðại đội trưởng quay qua hỏi Ðại đội phó
Hoàng Sơn:
- Ðại đội đã sẵn sàng chưa, cho tôi xem bản quân số.
Hoàng Sơn tay đưa bản quân số cho Huệ và nói:
- Dạ thưa Thiếu úy xong, à còn Thiếu úy Trần Vệ, Thiếu úy định cho
ra Trung đội nào ?
Ở trong quân đội rất có tôn ti trật tự, mặc dù cùng một cấp bậc
nhưng chức vụ cao và thâm niên hơn vẫn nhiều quyền hơn. Lúc đó tôi
vì tốt nghiệp trường Võ bị Quốc Gia nên mang cấp bậc Thiếu úy thực
thụ, còn Hoàng Sơn vừa từ Chuẩn úy lên nên còn mang Thiếu úy tạm
thời. Do đó Ðại đội trưởng cũng phân vân trong sự sắp xếp, dù sao
Thiếu úy Sơn cũng ở Ðại đội lâu năm, còn tôi mới tò te ra trường.
Sau một lúc đắn đo, Trịnh Văn Huệ nói:
- Thôi anh Vệ mới đến Ðại đội, nên đi theo tôi để tôi hướng dẫn
phương thức chiến đấu và chỉ huy.
Mới ra trường, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, được theo Ðại đội
trưởng để học hỏi, thật là một sự may mắn cho tôi. Năm người bạn kia
của tôi phải ra cầm Trung đội ngay, lại gặp một trận đánh khốc liệt
cho nên ai cũng lãnh ngay một thương tích.
Người cận vệ, Y Sĩ Tr/Úy Trương bá Hân, Ð/Úy Trần văn Hoán, một
Sĩ Quan trên đường vào Bình Giả
Ðoàn xe dừng lại ở Bộ chỉ huy Tiểu khu để Tiểu
đoàn trưởng và phó vào tham khảo với Trung tá Tiểu khu trưởng trước
khi xuất quân. Khi Thiếu tá Nho và Ðại úy Hoán ra khỏi Tiểu khu tôi
thấy vẻ mặt của họ có vẻ căng thẳng. Ðại úy Hoán mặt đỏ ửng, nói câu
gì đó mà tôi không nghe rõ trong khi Thiếu tá Nho im lặng đi bên
cạnh. Sau này tôi được biết tình hình địch không đúng như sự đánh
giá của phòng 2 Tiểu khu, mà theo báo cáo của Biệt Ðộng Quân thì
địch có lẻ đang tập trung đông hơn. Cho nên Ðại úy Hoán đề nghị với
Thiếu tá Nho nên từ từ để lấy thêm tin tức, trong khi lệnh của Tiểu
khu bắt Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho Tiểu khu Bà
Rịa phải vào ngay. Với cương vị Tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Nho không
cách nào hơn là tuân lệnh tiếp tục di chuyển đến tuyến xuất phát.
Sau khi đổ quân, đoàn xe vừa quay bánh trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu
thì Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến dàn quân vượt tuyến xuất phát.
Ðây là một đồn điền cao su của Pháp để lại, với những hàng cây cao
su to lớn, cao vòi vọi. Chúng tôi đi dưới mà không thấy ánh mặt
trời. Ðịa thế cách Bà Rịa 5 cây số về phía Tây, có 2 làng Bình Giả
và Xuyên Mộc, giao thông chỉ có một con đường đất đỏ xuyên thẳng từ
Bà Rịa qua Bình Giả, Xuyên Mộc đến Long Thành. Dân chúng ở đây sống
bằng canh tác cây cao su, mật độ thưa thớt. Dân Bình Giả được quy tụ
lại thành ấp chiến lược, có hàng rào tre chung quanh kiên cố, có
canh gác cẩn thận và đặc biệt ở đây có một nhà thờ mà cha xứ đã tổ
chức thanh niên thành đội ngũ dân quân nên Việt cộng không thể xâm
nhập được. Trong khi đó Xuyên Mộc ở sâu hơn chưa được bình định,
Việt cộng thường xuyên về tập trung dân để dọa dẫm, bắt đàn ông
thanh niên đi dân công. Ðịa phương quân thỉnh thoảng có hành quân
vào ban ngày rồi rút về nên Việt cộng dễ bề thao túng.
Với một địa bàn như thế, địch luôn luôn dựa vào Xuyên Mộc để tấn
công Bình Giả, cho nên dân chúng Bình Giả luôn luôn ở tư thế sẵn
sàng. Tiểu đoàn vượt qua tuyến xuất phát độ 2 cây số thì gặp Biệt
Ðộng Quân đang tải thương, Ðại đội 1 dẫn đầu, được lệnh tiến lên
vượt qua cánh Biệt Ðộng Quân để án quân canh phòng phía trước. Ðại
đội 2 và 3 bảo vệ hai bên hông, trong khi Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và
Ðại đội 4 bố trí cho đơn vị Biệt Ðộng Quân tải thương và rút toàn bộ
về phía sau.
Ðược biết từ mờ sáng, một Ðại đội Biệt Ðộng Quân tăng phái đã đụng
địch khoảng giữa Bà Rịa và Xuyên Mộc, hạ được 10 tên tại chỗ và tịch
thu một số vũ khí, trong đó có cả đại liên, chứng tỏ địch ở cấp Tiểu
đoàn trong khi phòng 2 Tiểu khu cho hay chừng một đơn vị nhỏ, thường
xuất hiện ở Xuyên Mộc để khuấy phá Bình Giả. Ðược thể, Ðại đội Biệt
Ðộng Quân tiến lên để tiêu diệt nốt thì chạm địch dữ dội. Chúng tấn
công nhiều đợt cấp Tiểu đoàn, do đó Biệt Ðộng Quân phải dừng quân
cầm cự và điện về Tiểu khu xin tiếp viện
Sau khi Biệt Ðộng Quân đã rút hẵn, Tiểu đoàn cho dàn quân lục soát
thêm 2 cây số nữa nhưng không thấy gì. Tình hình có vẻ yên tĩnh,
trời cũng bắt đầu xế chiều, vì rừng cao su nên trời tối rất mau.
Tiểu đoàn trưởng cho Tiểu đoàn rút về ấp chiến lược Bình Giả để đóng
quân đêm. Hàng rào ấp chiến lược bằng cây cao quá đầu người, rất
kiên cố. Khi chúng tôi đến, dân quân canh gác báo cho ấp và cha xứ
để họ cho người đón vào. Chúng tôi phải đi hàng dọc vì các nơi đều
gài lựu đạn để chống Việt cộng xâm nhập. Trời tối nhưng nhà dân đều
tắt đèn, tình hình có vẻ khẩn cấp, dân chúng đang trong tình trạng
báo động. Chúng tôi im lặng bố trí, Tiểu đoàn phòng thủ chu vi chung
quanh ấp chiến lược. Trong khi chúng tôi đang ăn cơm thì nghe phía
Ðại đội 1 có tiếng súng nổ. Vì ở chung với Ðại đội trưởng nên tôi
nghe qua máy truyền tin, Ðại đội 1 báo có bóng người thấp thoáng nên
lính gác nổ súng. Tiểu đoàn xin Tiểu khu soi sáng phía Xuyên Mộc,
đồng thời xin Pháo binh bắn những điểm nghi ngờ.
Tiếng chó sủa nổi lên từng nơi, từng lúc. Dân quân Bình Giả cho hay
đêm nào du kích Việt cộng cũng đến dò la, có lúc đạp nhằm lựu đạn
bên ta gài. Có lẽ ban chiều chúng thấy cánh quân Thủy Quân Lục Chiến
kéo đến nên trinh sát địch tìm tới dò tình hình. Pháo binh bắn gần
có lúc cành lá cao su văng vào phòng tuyến đóng quân của ta. Ðêm đó
tuy có nổ súng nhưng tình hình yên tĩnh, tôi và Ðại đội trưởng Huệ
nằm bên nhau ôn chuyện Võ bị Ðà Lạt, nhắc đến những vui buồn ở quân
trường, kể tên những em Bùi Thị Xuân vẫn thường vào Câu lạc bộ Sinh
viên sĩ quan để đón chàng ra phố... Chuyện trò miên man đưa tôi vào
giấc ngủ lúc nào không hay, giấc ngủ đầu tiên ngoài mặt trận, trong
đời lính của tôi...
Trời tờ mờ sáng, tôi giật mình thức dậy đã thấy Ðại đội trưởng nai
nịt sẵn sàng, ngồi xem bản đồ, tay cầm ly cà phê. Anh quay lại tôi
cười dễ dãi:
- Sao chàng Võ bị, đêm qua ngủ ngon không? Có mơ thấy em nào không?
Tôi bẽn lẽn vì dậy muộn:
- Chào Thiếu úy, có lẽ hôm qua đi bộ hơi mệt nên ngủ ngon quá. Tình
hình có gì không Thiếu úy ?
Huệ vươn vai đứng dậy:
- Ðêm qua yên tĩnh thôi, có lẽ nó đang dọ dẫm mình. Thôi ăn sáng đi,
độ một tiếng nữa thì Tiểu đoàn sẽ xuất phát đó.
Ðúng 7 giờ sáng, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi ấp chiến lược. Ðại đội
trưởng cho tôi hay hôm nay Ðại đội 2 của Trung uý Ðỗ Hữu Tùng dẫn
đầu. Trước khi di chuyển, Tiểu đoàn đã xin Tiểu khu yểm trợ. Hai
chiếc khu trục của Không quân oanh tạc từng đợt phía trước. Tiếng
bom nổ và đại liên từ máy bay làm yên lòng quân ta, Tiểu đoàn di
chuyển chậm, Ðại đội 3 đi sau nên chúng tôi thấy toàn bộ phía trước.
Rừng cao su rộng bao la với những hàng cây thẳng tắp , mỗi cây cách
nhau 2 mét nên rất khó che dấu, ngụy trang. Di chuyển được gần 2 cây
số thì đằng trước có tiếng súng nổ, Ðại đội 2 báo cáo về, đứa con
đầu phát hiện có bóng địch. Tôi đến sát máy truyền tin nghe ngóng.
Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho Ðại đội 2 truy kích địch. Trung úy Ðỗ
Hữu Tùng tuân lệnh, cho 2 Trung đội dàn hàng ngang tiến lên. Tiếng
súng đủ loại nổ dòn, có súng địch bắn trả. Trung úy Tùng cho hay
địch chạy qua chạy lại ở các hàng cây, lúc ẩn lúc hiện rất khó quan
sát nên xin Tiểu đoàn cho máy bay quan sát và khu trục yểm trợ tiếp.
Tôi nghe rõ giọng Thiếu tá Nho trong máy:
- Yên chí, Tango cứ cho bố trí, quan sát. Moa sẽ kêu ông già L.19
lên quan sát.
Một lát sau có tiếng ù ù đến gần, chiếc L.19 bay vòng vòng, độ 2
vòng nó xẹt xuống ném một trái nổ để đánh dấu. Lập tức 2 chiếc khu
trục không biết từ đâu ào tới dội bom liên tiếp. Tiếng Ðại đội
trưởng Ðại đội 2 la trong máy:
- Ðúng rồi, rất đẹp Ðại bàng ơi !
- O.K. Moa sẽ cho ông già chơi tiếp.
Hai chiếc khu trục đánh xong vừa vòng về thì có tiếng trực thăng từ
xa vọng đến. Tôi nhìn lên bầu trời thấy chiếc trực thăng đang bay
trên đầu địch, có lúc lượn sát ngọn cây cao su. Và rồi chúng tôi
không còn nghe tiếng máy bay nữa, không hiểu nó đã bay về hay đáp
xuống đâu đó... Bỗng nhiên tôi nghe tiếng Tiểu đoàn trưoởng từ máy
truyền tin:
- Cho tôi gặp Thẩm quyền 2.
- Thưa Ðại bàng có tôi.
- Ông anh cả (Tiểu khu) báo: con chuồn chuồn đi ăn sương vừa gãy
cánh, cách ta 1 cây số về phía Bắc, anh cho con cái lên bố trí để
vớt nó lên ngay.
Ðại đội trưởng Ðại đội 2 điều động đơn vị tiến về hướng Bắc. Lúc đó
khoảng 12 giờ trưa nhưng ở trong rừng cao su âm u nên tôi tưởng đã
về chiều, những tia nắng chiếu xuyên từng vạt không đủ soi sáng bóng
cây che. Ðộ nửa tiếng sau, tôi nghe súng đủ loại nổ rất gắt, chứng
tỏ Ðại đội 2 đang đụng mạnh. Trung úy Tùng báo cáo trong máy:
- Thưa Ðại bàng, tôi đã bắt được con chuồn chuồn, nó bị gãy cánh mà
chuột (Việt cộng) nhiều quá, tôi đang thanh toán chúng đây.
Súng vẫn nổ mạnh, thỉnh thoảng chen vào tiếng ầm ầm của B.4O địch
hoặc phóng lựu của bên ta. Thiếu úy Huệ đến bên tôi bảo thầm:
- Ðại đội 2 bị địch bao vây, có lẽ cả Tiểu đoàn, nhưng ông Tùng vững
lắm.
Một lát sau ông Huệ lại tiếp sau khi theo dõi ở máy truyền tin:
- Ðại đội 2 thu được 3 B.4O, 5 AK, hạ 7 tên tại chỗ.
Tôi cũng đến gần máy truyền tin nghe ngóng. Tiếng Trung úy Tùng la
trong máy, lần này ông nói luôn bạch văn:
- Trình Ðại bàng, chuột tràn lên đông quá, chúng cho dân đi đầu để
làm bia đỡ đạn. Con cái tôi chơi xả láng.
Thiếu tá Nho cũng la to trong máy truyền tin:
- Tango cố gắng, tôi sẽ cho gà cồ gáy tiếp.
Phi pháo lại tiếp tục yểm trợ, tiếng súng chợt ngưng hẳn. Có lẽ địch
dạt về phiá sau ẩn náu chờ dứt bom mới tấn công tiếp. Ðại đội 2 lui
về phía sau để cho khu trục và pháo binh làm việc. Ðồng hồ tay tôi
chỉ 2 giờ, các Ðại đội được lệnh di chuyển sau khi dứt đợt phi pháo
cuối cùng. Tôi đang loay hoay sửa lại thắt lưng đạn thì Thiếu úy Huệ
đến bên tôi nói:
- Này Vệ, thằng Kháng và Hùng Râu chết rồi!
Tôi ủa lên một tiếng và đứng trân người nhìn Huệ, ông lắc đầu không
nói thêm gì nữa. “Kháng ơi ! Hùng ơi ! Sao tụi mày đi nhanh quá,
không lẽ đời lính là thế sao ? 6 đứa mình hẹn nhau sẽ về hậu cứ làm
một chầu khao quân mà 2 đứa mày đã bỏ đi trước”. Tôi đang suy nghĩ
miên man thì chợt nghe tiếng hô “Di chuyển, di chuyển”. Ðại đội 1
của Trung uý Trần Ngọc Toàn và Ðại đội 3 chúng tôi được lệnh vượt
qua Bộ chỉ huy Tiểu đoàn tiến lên bọc bên trái và bên phải Ðại đội
2. Tôi nóng lòng vì Võ Thành Kháng và Hùng Râu nên xin Thiếu úy Huệ
cho đi cùng với Trung đội đầu, nhưng Thiếu úy Huệ chậm rải nói:
- Cứ từ từ, rồi Ðại đội cũng lên tới đó, cậu sẽ gặp và vuốt mắt
chúng nó.
Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nối theo chúng tôi và Ðại đội 4 bọc hậu. Khi
lên đến nơi, tôi gặp Trung úy Tùng, ông chỉ tay về phía trước bảo
tôi:
- Hai ông bạn của cậu đó, mới trận đầu nhưng chúng nó chơi đẹp lắm.
Tôi bước vội về phía ông Tùng chỉ, xác Kháng và Hùng Râu nằm co quắp
bên chiếc trực thăng gãy cánh, cạnh đó là xác 2 phi công Mỹ. Võ
Thành Kháng bị một viên ở mang tai và ở ngực, còn ngực Hùng Râu lãnh
nguyên một tràng. Tôi vuốt vội mắt cho hai bạn rồi bước theo Ðại
đội. Lúc đó là 3 giờ chiều, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn cũng vừa ào lên.
Các Ðại đội được lệnh bố trí chung quanh máy bay trực thăng để chuẩn
bị tải thương. Bỗng có tiếng súng nổ ở phía trái chúng tôi, tức vị
trí Ðại đội 1 của Trung úy Toàn. Ông Toàn báo cáo trong máy:
- Ðịch xuất hiện, dàn hàng ngang, đông lắm!
Tiếng súng chát chúa, nổ rất gần, có lúc xẹt qua phía chúng tôi.
Thiếu úy Huệ đang nói chuyện trong máy với Thiếu tá Nho thì âm thoại
viên Ðại đội báo cáo Trung đội 3 phát hiện có địch. Chưa dứt lời thì
tiếng súng đã nổ vang rền phía Trung đội 3 của Lâm Xuân. Khoảng 5
phút sau thì súng nổ khắp nơi: Ðại đội 1 bên hông trái, Ðại đội 3
bên hông phải và cả mặt sau Ðại đội 4 của ông Tống. Như vậy là địch
đã tập trung bao vây Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến trong khi chúng
tôi vừa mới bố trí, chưa kịp đào hầm hố gì cả. Bên ta cũng như địch,
chỉ lấy gốc cao su để che chắn. Cả 3 Trung đội của Ðại đội 3 đều
khai hỏa.
Ðịch thấp thoáng sau hàng cao su, ta bắn như bắn bia, nhưng bóng
người vẫn lao lên. Tôi nghe có cả tiếng kèn thúc quân và hình như
tiếng ngựa hí đâu đây.(Về sau tôi nghe kể lại có cả Tướng Việt cộng
Dương Văn Nhựt em của Tướng Dương Văn Minh cầm quân trong trận này).
Như thế quân số địch lên tới cả Trung đoàn, và đây là lần đầu tiên
chúng tập trung với một số quân đông đảo cho một trận chiến. Tai tôi
như ù đi vì tiếng súng không dứt. Trung đội 2 do Thượng sĩ I Kim Tâm
chỉ huy báo cáo địch sắp sửa tấn công đợt 2, xin tăng cường đại
liên. Thiếu úy Huệ ngoắc tổ đại liên chỉ về phía Trung đội 2 và ông
cũng chạy lên theo. Tôi nghe rõ tiếng Kim Tâm la:
- Ðại liên, bắn, bắn, chúng lên đó !
Thế là đại liên nổ dòn, Thiếu uý Huệ lăn vào một gốc cao su và chỉ
tôi gốc cây bên cạnh. Ông quơ tay chỉ cho Kim Tâm bảo con cái tác xạ
về hướng trái, có khoảng 10 bóng địch vừa xuất hiện và tác xạ về
phía chúng tôi. Ðịch bắn một tràng về phía ông Huệ, tên đệ tử của
tôi vội la lên:
- Chết, Ðại đội trưởng bị thương rồi!
Tôi bàng hoàng quay phắt về nhìn Thiếu úy Huệ và thấy ông đang ôm
bụng, máu thấm ướt cả áo trận. Tôi phóng vội về phía ông vì khoảng
cách giữa 2 gốc cây khoảng 4 mét. Thiếu úy Huệ nấc lên rồi thều
thào:
- Tôi bị thương nặng lắm, nếu có gì cậu cùng thằng Sơn bảo toàn Ðại
đội. Ðịch còn tấn công nữa, không chịu được cứ rút về hướng này.
Giọng ông đứt quãng, đưa tay chỉ hướng cho tôi rồi ngoắc bảo tôi trở
về vị trí cũ. Tôi vừa lăn mình về chỗ cũ thì một tràng trung liên
địch nổ dòn vào Thiếu úy Huệ, ông bật người lên rồi ngã xuống chết
ngay. Tính mạng tôi cũng ra đi trong gang tấc nếu sau khi nhận bản
đồ và địa bàn từ tay ông mà còn nấn ná chưa chịu đi. Hai âm thoại
viên mang máy Ðại đội và Tiểu đoàn chạy về phía tôi lắp bắp:
- Thiếu úy, Ðại đội phó Hoàng Sơn bên cánh Trung đội 3 cũng bị
thương rồi !
Thế là cả Ðại đội trưởng lẫn phó cùng bị một lúc, tôi ngây người ra
trong chốc lát. Làm sao đây, xử trí cách nào đây ! Tự nhiên tôi thấy
mình tỉnh táo hẳn: tôi ra lệnh cho âm thoại viên Ðại đội bảo các
Trung đội báo cáo tình hình. Ðồng thời chỉ thỉ cho âm thoại viên
mang máy Tiểu đoàn báo cho Tiểu đoàn biết Ðại đội trưởng Huệ đã
chết.
Trung đội 1 và 2 báo cáo có bị thương và chết nhưng số còn lại vẫn
bám chặt, cầm cự. Riêng Trung đội 3 không liên lạc được, về sau tôi
mới rõ là Trung đội 3 phòng thủ sát với Ðại đội 1, bị tấn công mạnh
quá nên đã dạt về phía sau và mất liên lạc sau khi báo cáo Ðại đội
phó bị thương. Chợt trước mắt tôi có bóng người thấp thoáng, tôi
phóng về phía xạ thủ đại liên vỗ vai hắn:
- Có địch, bắn về phía kia kìa.
Hắn quạt một tràng đại liên dòn tan, 3, 4 tên ngã xuống. Xạ thủ viên
quay về phía tôi toét miệng cười:
- Ông thầy mới về Ðại đội hả ?
- Ừ, mới về, mày bắn khá lắm.
Hắn bô bô:
- Ông thầy chưa nghe tiếng Sáu Ðại Liên hả?
(Từ ngày đầu quân vào Thủy Quân Lục Chiến, Sáu xin thủ cây Ðại liên.
Mỗi lần hành quân hắn chỉ vác khẩu đại liên và 2 dây đạn quanh mình,
không mang theo gì nữa, quanh năm chỉ có một bộ đồ. Hễ hắn nổ đạn là
có người ngã, đánh giặc chì lắm, nghe tiếng súng là nhào tới ngay
cho nên ông Huệ cưng lắm.)
Tôi la lên:
- Bắn ! Bắn ! Nó kìa !
- Ông thầy để em.
Rồi hắn bấm cò, tôi thấy rõ ràng 4 tên ngã xuống cách tuyến chỉ độ 3
mét mà thôi. Thấy cấn cái bên hông, tôi quay lại hỏi:
- Thằng nào đây ?
Sáu Ðại Liên trả lời:
- Thằng Minh rỗ, phụ xạ thủ cho em đấy ông thầy. Nó vừa lãnh 2 viên,
tội nghiệp vừa mới lấy con vợ bán hột vịt lộn ở đầu chợ Vũng Tàu
được 2 tháng.
Nghe Sáu đại liên nói, tự nhiên tôi thấy buồn và nói với nó:
- Ð.M thằng Việt cộng, sau này cầm quân, tao chơi xả láng.
Sáu Ðại Liên ngẩn người rồi lại toét miệng cười:
- Chà, ông thầy ngon dữ, em xin theo ông thầy.
Phía Ðại đội 1, súng nổ vang rền lẫn tiếng hô xung phong nhưng không
rõ của bên nào. Cả phía Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nữa, vì gần lắm. Thằng
mang máy Tiểu đoàn ghé vai tôi nói nhỏ:
- Hình như Trung úy Toàn Ðại đội trưởng Ðại đội 1 cũng vừa bị
thương.
Tôi giật mình không ngờ tình hình căng dữ, các Ðại đội trưởng đều
theo nhau cả. Lát sau tiếng súng thưa dần và im hẳn, tôi nhìn đồng
hồ thấy 8 giờ tối, ham chiến đấu không ngờ thời giờ qua mau. Bóng
đêm đã tràn ngập cánh rừng, chỉ thấy lờ mờ nhờ vào bầu trời đầy sao.
Tôi cố liên lạc với Tiểu đoàn nhưng không được. Tứ bề im lặng, thỉnh
thoảng có tiếng rên của một vài người lính bị thương. Bỗng nhiên máy
truyền tin Tiểu đoàn có tiếng kêu, tôi vội chụp ống liên hợp:
- Ai đó ? Ðây là Ðống đa 3.
- Ðây Thẩm quyền Ðống đa 4, Ðại bàng Non nước zulu rồi. Ðống đa 3
cho kiểm soát con cái rồi trở về mái nhà xưa đêm qua.
Tôi đoán đó là Trung úy Nguyễn Ðằng Tống, Ðại đội trưởng Ðại đội 4
cho nên trả lời tuân lệnh và cúp máy. Tôi lom khom đi theo tuyến để
kiểm lính. Vừa được mấy bước thì Sáu đại liên chạy lại bên tôi:
- Ông thầy cho em đi theo nhé.
Tôi nghĩ trong tình thế này, mình cũng cần một tay súng bên cạnh nên
gật đầu:
- Ừ, mày theo sát sau lưng tao, nếu có gì mày nhả đạn ngay.
Sáu dạ một tiếng rồi quay lại chỗ Minh rỗ chết, lấy thêm 2 dây đạn
vắt lên vai và chạy theo tôi. Tôi đếm được khoảng 32 người, riêng
Trung đội 3 chỉ còn 5. Ðang kiểm kê thì thấy một bóng đen to lớn,
mặt mày đen thui đang lui hui bên cạnh, tôi hỏi người âm thoại viên:
- Ai đó ?
- Dạ thằng Trung sĩ Mỹ đen, hồi sáng Tiểu đoàn gởi theo mình để lên
lấy xác phi công đó ông thầy.
Tôi gật đầu nắm tay Trung sĩ Mỹ nói
- Follow me! O.K!
Anh ta gật gật nói
- O.K, O.K khoe hàm răng trắng toát.
Tôi dặn chuyền chuẩn bị di chuyển trong im lặng rồi tự mình lên dẫn
đầu, Sáu đại liên theo sau, rồi 2 thằng mang máy, anh Mỹ đen và đoàn
lính. Chúng tôi bước nhẹ nhẹ, nghe ngóng và đi dần dần ra khỏi khu
rừng. Ði được hơn 50 mét thì tôi nghe một tiếng “bịch” ở trên trời,
rồi một trái sáng lóe lên chiếu sáng một góc trời. Tôi hô nằm xuống,
cả đoàn dạt qua một bên nằm im lặng. Thấy mình di chuyển khi có ánh
sáng rất bất lợi vì bị địch quan sát dễ dàng, chúng quạt cho một
tràng thì chết cả lũ, cho nên khi trái sáng dứt thì chúng tôi đi.
Trái khác bắn lên thì ngừng lại quan sát địa thế để sau đó đi tiếp.
Có lẽ Tiểu khu đã soi sáng cho chúng tôi di chuyển nên trái sáng
được bắn lên liên tiếp trên bầu trời. Hơn nữa giờ di chuyển tôi nghe
được tiếng lọc cọc bên tay trái và ra hiệu cho đoàn quân dừng lại im
lặng nghe ngóng. Có khoảng 10 chiếc xe bò đi lọc cọc lẫn tiếng người
nói chuyện lao xao. (Về đến Bình Giả được dân quân cho hay là Việt
cộng đã dùng xe bò của dân để chuyển xác đồng bọn sau khi đụng độ
với Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến). Sáu dợm mình định quạt vài
tràng đại liên, tôi kéo nó lại:
- Thôi kệ nó, mình đang rút quân, đánh đấm gì bây giờ nữa.
- Em nhịn không được, muốn chơi một cú...
- Thôi, ráng đi, lần khác tao cho mày thả dàn.
Chúng tôi đi cả giờ đồng hồ mà chưa ra khỏi rừng cao su. Cứ đi một
đoạn lại nghe tiếng người lao xao, thì ra tụi Việt cộng cũng rút
quân và di chuyển thương binh. Vì thế chúng tôi di chuyển rất chậm,
có lần suýt đụng địch. Chúng tôi cứ tiếp tục đi độ nửa tiếng nữa thì
trái sáng chấm dứt. Trời tối om như mực, tôi nhìn đồng hồ đã 11 giờ
30 khuya. Tôi nghĩ nên để sáng mai đi tiện hơn vì đêm tối không thể
định hướng được vả lại nguy hiểm vì địch tứ phía... Nên tôi quyết
định cho dừng quân, gom lại thành một vòng tròn và cứ thế ngả lưng
vào gốc cây cho qua đêm. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì tên đệ tử khều
tôi:
- Ông thầy uống chút nước, có ổ bánh mì đây, ông thầy ăn đi kẻo đói.
Bây giờ tôi mới nhớ là từ trưa đến giờ chưa ăn uống gì cả mà vẫn
không đói. Tôi cắn một miếng bánh mì, hớp một hớp nước rồi trả lại
cho đệ tử và tiếp tục dòng tư tưởng: thằng Kháng và Hùng chết rồi,
không rõ mấy thằng Ái, Hoàng và Thái Bông ra sao. Ðại đội 1 cũng
đụng mạnh lắm, hy vọng Ái và Hoàng không bị gì, chúng đã về ấp Bình
Giả chưa... Và tôi nghĩ đến đời lính của mình đã mở màn bằng một
trận đánh thần sầu, đêm đầu tiên ngủ bờ ngủ bụi như thế này...Và cứ
thế tôi ngủ lúc nào không hay cho đến khi có tiếng gọi bên tai:
- Thiếu úy, Thiếu úy, trời sáng rồi.
Tôi giật mình, ngồi dậy dụi mắt. Trời đã sáng rõ, đám lính đang loay
hoay sửa soạn ba lô. Ðồng hồ chỉ 7 giờ, tôi lấy bản đồ định vị trí,
đo phương giác từ để định hướng rồi cho đoàn quân di chuyển. Có hai
người lính, một trẻ một già chạy lại phía tôi:
- Thưa Thiếu úy, em thuộc Ðại đội 2 lạc qua đây. Ðêm qua tụi nó tấn
công dữ, ông Toàn chì lắm, dứt tụi nó tơi bời, cuối cùng còn cho
xung phong nên ổng bị thương nặng đó Thiếu úy.
- Ông Toàn là đàn anh tôi đó, thôi cứ theo đây rồi về Tiểu đoàn hẵng
hay.
Chúng tôi di chuyển theo hướng Nam về ấp Bình Giả, đang đi thì có
tiếng L.19 quần trên trời. Chúng tôi phải ẩn nấp sau hàng cây để di
chuyển vì sợ máy bay tưởng lầm địch thì nguy. Bỗng tiếng loa từ trên
máy bay vọng xuống:
- Thưa đồng bào, dân quân 2 làng Bình Giả và Xuyên Mộc, Việt cộng đã
tập trung 2 Trung đoàn chủ lực định đánh chiếm ấp chiến lược Bình
Giả nhưng đã bị Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đánh tan tành. Hiện
chúng đang rút từng toán theo hướng Xuyên Mộc về Rừng Lá. Xin đồng
bào đừng chứa chấp lũ giặc Cộng gian ác, và quân ta đang trên đường
truy kích địch.
Ðến trưa thì chúng tôi thấy ấp Bình Giả trước mặt, tất cả đều vui
mừng hớn hở. Về đến đầu làng thì thấy hai bên đường dân làng ra đón,
họ đem thức ăn, xôi, gà ra để dọc đường và chạy theo tiếp tế cho
chúng tôi. Sự tiếp đón niềm nở của dân chúng đã làm cho chúng tôi
cảm động và quên đi bao mệt nhọc gian khổ. Sẵn đói bụng, anh em
chúng tôi ăn uống rất ngon lành. Vào đến Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn tôi
gặp Trung úy Nguyễn Ðằng Tống, ông ôm chầm lấy tôi nghẹn ngào.
- Sao, Thiếu úy Huệ chết rồi hả ?
Tôi im lặng không nói, chỉ gật đầu. Ông biết tôi buồn nên không hỏi
nữa, kéo tôi vào Bộ chỉ huy và cho tôi biết qua tình hình của Tiểu
đoàn. Sau các đợt tấn công, địch đã xâm nhập vào tận Bộ Chỉ huy Tiểu
đoàn nên Thiếu tá Nho, Ðại úy Hoán và Y sĩ trưoởng đã tử trận. Theo
báo cáo của dân quân thì địch chết và bị thương rất nhiều, chúng rút
chạy suốt đêm qua. Trung úy Nguyễn Ðằng Tống, Ðại đội trưởng Ðại đội
4 tạm xử lý Tiểu đoàn trưởng. Tôi hỏi về các bạn của mình thì ông
Tống cho hay Ðỗ Hữu Ái và Hồ Ngọc Hoàng cũng bị thương đã được
chuyển về Vũng Tàu. Chỉ Thái Bông còn nguyên xi.
Tôi vội quay về Ðại đội mình để kiểm kê lại, vì có lệnh chuẩn bị để
vào tải thương các binh sĩ chết và bị thương chưa đem ra được. Ðại
đội 3 còn 46 người vừa sĩ quan và binh sĩ. Một số lính của các Ðại
đội bị tản mác cũng đang lần hồi về ấp Bình Giả trình diện. Khoảng
12 giờ trưa thì được lệnh di chuyển vào tản thương, chúng tôi có
thêm 1 Tiểu đoàn Nhảy Dù đến yểm trợ. Trên đường đi tôi gặp Nguyễn
Văn Lệ và Nguyễn Văn Thành tự Thành Râu khóa 19 đang dàn Trung đội
Dù hai bên đường để bảo vệ chúng tôi. Lệ và Thành kéo tôi lại hỏi
thăm tình hình bạn bè. Tôi cho hay Kháng và Hùng Râu đã chết, Ái và
Hoàng bị thương, chỉ còn Thái Bông và tôi. Sau đó tôi lại gặp toán
Dù khác, Bùi Dương Thanh và Nguyễn văn Nhỏ cùng khóa 19, xông ra hỏi
thăm ráo riết. Tình đồng đội, huynh đệ chi binh là thế, sau mấy năm
ở quân trường, giờ đây mỗi người một ngả, cứ hỏi thăm nghe ngóng tin
tức của nhau.
Ðến 6 giờ chiều thì chúng tôi đưa được thương binh và tử sĩ về ấp
Bình Giả để trực thăng đưa đi. Ðêm ấy Tiểu đoàn nghỉ đêm tại Bình
Giả, các Tiểu đoàn Dù trấn đóng bên ngoài. Tình hình rất yên tĩnh vì
Việt Cộng đã thấm đòn, không còn khả năng đánh chiếm làng Bình Giả
nữa.
Ngày hôm sau chúng tôi được di chuyển bằng xe về Vũng Tàu, đây là
lần đầu tiên tôi thấy hậu cứ của Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến.
Ðoàn xe vừa về đến cổng Tiểu đoàn thì Hồ Quang Lịch chạy ra la lớn:
- Thằng Vệ đâu ? tao tưởng mày theo ông Huệ rồi chớ !
Tôi cười bắt tay Lịch:
- Số tôi còn lớn lắm, chưa chết đâu ông anh.
Lại gặp cả Lâm Xuân ở đây nữa, ngay từ đầu tôi đã nhận thấy anh
chàng này nhanh nhẹn, thì quả nhiên Lâm Xuân đã dẫn Trung đội dọt về
Bà Rịa và được Tiểu khu cấp xe về hậu cứ luôn.
Ngày hôm sau, Tiểu đoàn họp trước sân cờ để trình diện Tiểu đoàn
trưởng mới là Ðại uý Nguyễn Thành Trí, Tiểu đoàn phó là Ðại úy
Nguyễn Hữu Nhơn, và Y sĩ trưởng là Bác sĩ Nguyễn Văn Thế. Ðại đội 3
cũng có Ðại đội trưởng mới là Thiếu úy Huỳnh Ngọc Liên. Tiểu đoàn
được tuyên dương công trạng đã bẻ gãy âm mưu của Việt cộng trong
chiến dịch lấn chiếm Bình Giả.
Tôi được thưởng Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu. Tôi cũng đề
nghị Anh dũng Bội tinh với ngôi sao đồng cho Sáu Ðại liên. Trong khi
chờ gắn huy chương, đứng cạnh tôi trong hàng quân, Sáu Ðại liên gọn
gàng trong bộ quân phục rằn ri, tay áo xắn cao, tóc tai gọn ghẽ. Nó
ghé tai tôi nói thầm:
- Ông thầy, hồi nãy em đến đây, gặp 2 con nhỏ bán chè xôi nước ở ngã
tư, tụi nó cứ trố mắt nhìn em rồi hỏi sao giờ em đẹp trai quá vậy ?
rồi còn cười em nữa.
- Ừ, tao cũng thấy mày ngon lành lắm, thôi đứa nào mày chọn một đứa
đi.
- Dạ chưa được đâu ông thầy, còn đi hành quân mà sao lấy vợ được. Ðể
hôm nào em dẫn ông thầy ra ăn chè xôi nước, ngon lắm!
- Chè ngon hay nó ngon mày ?
Sáu Ðại liên toét miệng cười:
- Cả hai, ông thầy ơi !
Trong phần diễn từ của Tân Tiểu đoàn trưởng, ông nhắc đến những sĩ
quan và binh sĩ đã tử trận vì chính nghĩa quốc gia. Tôi thấy bùi
ngùi trong lòng và tự nhủ: “Hai võ sĩ lên đài thì thế nào cũng có
trầy môi, sứt trán, chưa kể người nặng kí kẻ nhẹ hơn. Trong trận này
bên ta chỉ có một Tiểu đoàn mà phải chống trả với 2 Trung đoàn địch
và vẫn giữ được ưu thế thì phải biết các chiến sĩ của Tiểu đoàn 4
TQLC can trường đến thế nào. Chúng ta đau đớn vì mất đi một số bạn
bè, chiến hữu nhưng chúng ta cũng tự hào về tinh thần chiến đấu và
lòng yêu nước của những người đã nằm xuống cũng như đang còn lại.
Chúng ta đã làm rạng danh Tiểu đoàn 4 TQLC với Bình Giả”.
Sau này Tiểu đoàn 4 TQLC có lập một Ðài Tử Sĩ ở Bà Rịa để ghi công
các chiến hữu đã bỏ mình tại đây.
Hôm nay, tôi viết bài này cũng có thêm mục đích tưởng nhớ tới các
đơn vị trưởng như Thiếu tá Nguyễn Văn Nho, Ðại úy Hoán, Bác sĩ
Trương Bá Hân, Thiếu úy Trịnh Văn Huệ, các bạn Võ Thành Kháng,
Nguyễn Văn Hùng và những người đã vĩnh viễn ra đi khác. Chúng tôi
những kẻ còn lại luôn luôn giữ vững ý chí sống còn cho Tự do, cho
dân tộc Việt Nam. Và ngày nay dù lưu vong nơi xứ người, chúng tôi
vẫn là những người lính, sẵn sàng hy sinh những ngày còn lại nếu
cần.
MX Trần Vệ
Tiến trình thành lập và phát triển BC TQLC
Chiến sử TQLC
Binh Chủng TQLC
Sơ lược về BC TQLC
Trung Tá Lê Quang
Trọng - Chỉ Huy Trưởng TQLCVN đầu tiên
Đại Úy Bùi Phó Chí vị
Tiểu Ðoàn Trưởng TQLC đầu tiên
Trung Tá Lê Nhữ Hùng -
người đã góp công nhiều cho sự hùng mạnh của Ðoàn Quân Mũ Xanh
Tiến trình thành
lập Chiến Đoàn & Lữ Đoàn
Lữ Đoàn 258
Lữ Đoàn 369
Tiểu Đoàn 1 - Quái Điểu
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa
Tiểu Đoàn 2 - Trâu Điên
Tiểu Đoàn 3 - Sói Biển
Tiểu Đoàn 4 - Kình Ngư
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng
Tiểu Đoàn 7 - Hùm Xám
Tiểu Đoàn 8 - Ó Biển
Tiểu Đoàn 9 - Mãnh Hổ
Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh
Tiểu
Đoàn Truyền Tin
Pháo Binh TQLC
Viết cho những người pháo
thủ Mũ Xanh
Một đoạn đường trong
cuộc đời Y Sĩ TQLC
Mật khu Đỗ Xá
Chiến
dịch Sống
Tình Thương
Hành quân
Hội Đồng Sẩm
Tiểu
Đoàn 2 -
Trận An Qúi
Tiểu Đoàn 2 - Trận
chiến Tam Quan
Tiểu Đoàn 3
- Trận Bàng Long, Cay Lậy
Tiểu Đoàn 4
- Trận Bình Giả lúc khởi đầu
Tiểu Đoàn 4 -
Bình Giả ơi! Còn nhớ mãi
Tiểu Đoàn 5 - Trận
Mộ Đức
Tiểu Đoàn 5
- Trận Mộ Đức & Cái chết của vị TĐT
Chiến
Đoàn A -
Trận Phụng Dư
Chiến Đoàn A
- Trận
Đức Cơ
Chiến Đoàn B và TĐ-5
Dù Truy Kích CQ ở Ba Gia
Chiến
Đoàn B - Cuộc hành quân đổ bộ Deckhouse V Sóng Thần
Tiểu Đoàn 6 - Trận
Mậu Thân
TQLC Trong
Tết Mậu Thân
Chiến Đoàn A
- Trận Mậu Thân
Hình Ảnh T/T Nguyễn Văn Thiệu
thăm TĐ2/TQLC
Cuộc
hành quân qua Cambodia
Tiểu
Đoàn 4 - Hành quân Cambodia
Tiểu
Đoàn 7 - Những ngày đầu
Tiểu
Đoàn 8 - Trận Cam-Bốt
Lữ
Đoàn B - Vượt biên qua Kampuchia
Hành
quân Lam Sơn 719
Tiểu
Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa sang Lào
Tiểu
Đoàn 2 - Hành quan Lam Sơn 719
Tiểu
Đoàn 3 PB - Căn cứ hỏa lực Hồng Hà
Tiểu
Đoàn 4 - Đêm Hạ Lào sao dài quá!
Tiểu
Đoàn 9 - Trận chiến Ba Lòng
Tiểu
Đoàn 9 - Trận chiến Động Cù Mông
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
TQLC/VN và cuộc tấn công của csBV tại Vùng I
Tiểu
Đoàn 3 - Tại
Đông Hà
Tiểu
Đoàn 3 PB - Tay đôi với tụi nó...
Tiểu Đoàn 4 - Mùa
hè đỏ lửa
Tiểu
Đoàn 5 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 6 -
Thần Ưng trong mùa hè đỏ lửa
Tiểu
Đoàn 6 - Xé xác tăng địch
Tiểu
Đoàn 7 - Ngày đầu cuộc chiến
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Lữ
Đoàn 258 - Chiến thắng Quảng Trị tháng 4, 1972
Công
sản BV bị TQLC đánh bại tại Đông Hà
Hành
lang máu
Tiểu
Đoàn 9 - Trận chiến cầu Bến Đá
Tiểu
Đoàn 9 - Rừng núi Barbara
Lữ
Đoàn 369 - Trân sông Mỹ Chánh
Tái
chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 19-6-1972
Tiểu
Đoàn 1 - Thử lửa đầu tiên
Tiểu
Đoàn 1 - Nhảy vào Triệu Phong
Tiểu
Đoàn 1 - Đổ bộ trong lòng địch
Tiểu
Đoàn 1 PB - 20,000 đạn đại bác mỗi ngày
Tiểu
Đoàn 2 - Cuộc chiến Cổ Thành Quảng Trị
Tiểu Đoàn 2 -
Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Tr/Đ Tăng-Thiết Giáp 202
Tiểu
Đoàn 2 - Tái chiếm Dinh Tỉnh Trưởng & Toà Hành Chánh Quảng Trị
Tiểu
Đoàn 3 & 6 - Tiến về Quảng Trị
Tiểu
Đoàn 3 - Dựng cờ
Tiểu
Đoàn 5 - Hắc Long dậy sóng
Tiểu
Đoàn 5 - Đánh trên đầu địch
Người
Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Pháo
Binh TQLC và trận Quảng Trị
Cờ
bay trên Cổ Thành Quảng Trị
Tiểu
Đoàn 2 - Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi
Tiểu
Đoàn 3 PB - Trước khi ngưng bắn
Tiểu
Đoàn 4 - Hành quân Cửa Việt
Lữ
Đoàn 258 - Chiến tích sau cùng
Hương
lộ 555 lẻ loi
Tiểu
Đoàn 7 và Lữ Đoàn 147
Lữ
Đoàn 147 - Di tản chiến thuật
Tiểu
Đoàn 4 - Trận đánh cuối cùng
Tiểu
Đoàn 9 - Trận đánh cuối cùng
Bãi
biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt
Vị
TĐT cuối cùng của Tiều Đoàn 1 Quái Điểu
Y Sĩ TQLC: Những người không thích sống lâu