Thương tích
			Đã 50 năm
			Quê hưong ngàn trùng
			Đừng gọi tôi là ân 
			nhân
			Ngày chia tay
			Ánh trăng xưa
			Ngày đại thọ
			Lòng sơn gửi tạm 
			giữa đất trời
			Mông lung
			Hòn khô
			Đêm ngủ tôi mơ
			Cali mùa hạnh ngộ
			Nhớ mãi
			Vẫn tìm em
			Gánh phù vân
			Quốc hận
			Nhắn lời
			Tháng 2! Xuân vẫn 
			ngát hương đời
			Nhớ xuân xưa
			Xin em
			Cũng đành thôi
			Mừng sinh nhật
			Phút cuối
			Đoản khúc Đà Lạt
			Chờ
			Hương lòng
			Niềm riêng đêm thánh
			Nỗi đau thẩm
			Tình tôi lãng mạn....
			Tàn thu
			Em cao nguyên
			Thu từ phương ấy 
			thu sang
			Kỷ nhân hồi
			Hoài Thu 
			Tịch liêu
			Tình gửi từ 
			trên đôi cánh sắt
			Trầm tích
			Ngồi giữa Eden 
			nhớ Saigon 
			Nhớ quá
			Tìm nhau
			Một khúc hoài
			Muộn màng
			Bước lưu vong
			Tháng 7
			Nhìn biển nhớ người
			Chuyện một đời người
			Rượu đầy làm sao cạn
			Bó tay!
			Vô thường bóng em
			Đón xuân
			Nói đi em
			Đêm Giáng Sinh xưa
			
			Nhớ em
			Cám ơn
			Đêm Thu
			Hồng Quế
			Tháng tám mưa rơi
			Lòng vẫn xuân xanh
			Ước gì
			Nhớ áo xưa
			Hạ vàng trong kỷ niệm
			Tóc mây
			Lửa Việt
			Xuân giữa trời đông
			Khi muà xuân đến
			Bóng xuân
			Hẹn một mùa xuân
			Lời cho hải đảo
			Đừng do dự
			Một vòng quay
			Một mình trên căn gác
			Mùa hoa phượng
			Gọi thầm
			Thầm lặng
			Ngàn năm mãi tình 
			chung
Đứng vùng lên
			Nỗi buồn vong quốc
			Ngày rời Đà Nẵng
			Câu hỏi
 
Vừa ra khỏi cổng là không ai hẹn ai, 
			tất cả đều quay lại nhìn nơi mình vừa rời bỏ. Vài nụ cười kèm tiếng 
			thở phào...nhẹ nhỏm! Không có lời xì xào hay câu trao đổi. Im lặng! 
			Nhưng không phải là sự im lặng của lo lắng, sợ sệt, hay của lòng cam 
			chịu như khi lần đầu bị lùa vào trại lao động khổ sai mang mỹ từ ..: 
			cải tạo, mà là thứ im lặng để tận hưởng tự do, cho dù chỉ là thứ tự 
			do tạm bợ vì trong tờ giấy phóng thích có ghi câu: " địa phương chịu 
			trách nhiệm quản lý và giáo dục ".... Nhưng đó là chuyện của tương 
			lai, còn hiện tại thì chúng tôi đã ở bên ngoài vòng rào của doanh 
			trại có bộ đội ôm súng trên chòi gác. Toàn cảnh của Trại 4, Tổng 
			Trại 1, thuộc Quân Khu 5, nằm im lìm tắm nắng. Một ngày tuyệt đẹp và 
			cũng là một ngày hăm hở, nôn nao pha lẫn thoáng bùi ngùi của 100 tù 
			tàn binh được nhà nước " khoan hồng " cho về đoàn tụ với gia đình. 
			Cả năm gắn bó với nhau suốt từ các trại tù Hội An, Hòa Cầm rồi lên 
			đến miền núi Hiệp Đức này đủ làm chúng tôi quyến luyến, nao nao, khi 
			chia tay với bạn bè đồng cảnh. Mặc dù những gì cần nói đã nói hết từ 
			hôm qua, nhưng giờ đây tôi lại có cảm giác mình chưa nói được tất cả 
			những gì còn chất chứa trong lòng. Họ- những đồng cảnh còn phải trả 
			nợ đời trong trại tù khổ sai- chắc chắn cũng bồi hồi và nôn nao 
			không kém vì rốt cuộc cũng đã có tia hy vọng ở cuối đường hầm khi đã 
			có người được thả về đoàn tụ với gia đình. Hy vọng lại bùng lên 
			vì đây là đợt thứ nhì của tổng trại 1 sau lần thả tù đầu tiên vào 
			dịp Tết, chỉ mới hơn một tháng trước mà thôi.
			
			Từ khi bị lâm vào cảnh đọa đày, ai cũng mong có được như hôm nay, 
			nhưng nguyên ngày hôm qua, tôi cứ mong thời gian trôi chậm lại để 
			còn bịn rịn với anh em đựơc thêm chút nào, hay chút đó. Mới hôm nào 
			mọi người lầm lũi lội sình, đội mưa, bước vào chốn đọa đày dưới họng 
			súng gườm gườm của bộ đội chính quy lẫn đám dân quân địa phương. Mới 
			hôm nào khu rừng và đồi núi chung quanh xã Bình Hòa, thuộc quận Hiệp 
			Đức này còn dày đặc cỏ tranh, ngút ngàn cây lá, cùng với muỗi mòng, 
			rắn rít và lũ vắt tanh tưởi lúc nhúc trên khắp lối đi, thế mà hôm 
			nay: thứ bảy 20 -03- 1976, con đường trở ra quận lỵ Hiệp Đức đã 
			quang đãng, khô ráo. Con người tới đâu, núi rừng lui tới đó. Vùng 
			đồi núi hoang phế, loang lỡ chung quanh khu láng trại của tù tàn 
			binh và doanh trại bộ đội bây giờ là những luống rau lang xanh thắm, 
			hay những khoảng đất basalt mầu mỡ đã được khai quang, cào cuốc. Đây 
			vốn là công sức lao động, là mồ hôi, máu, cũng như nước mắt của 
			những kẻ sa cơ một hời mang màu áo lính cộng hòa của miền Nam tự 
			do.
			
			Giã từ đồng cảnh! Chia tay hôm nay mai này có thể sẽ không có cơ hội 
			gặp lại nhau. Bất giác lòng tôi bồi hồi dấy lên một niềm thương cảm 
			rất ,...nghẹn ngào. Dù sao thì nơi đây cũng đã từng chứng kiến những 
			nhục nhằn mà tù tàn binh đã trải qua. Làm sao quên được những ngày 
			phá rừng, cuốc rẫy dưới ánh nắng nung người hay cơn mưa tầm tã. Đói 
			lạnh rung mà vẫn phải " lao động tốt " để khỏi nghe những lời xỉ vã 
			của mấy tên bộ đội nhóc con kè kè súng chĩa ngang hông. Lệ thương 
			thân, khóc đời cùng tận, hay mồ hôi pha hạt mưa nhòa mà mắt bỗng cay 
			xè thả vị mặn xuống môi?! Là con người hay nô lệ?! Là ngoại chủng 
			hay đồng bào mà những dằn vặt, dày xéo, tra tấn tinh thần lẫn thể 
			xác cứ ngày đêm phủ chụp lên những tàn binh giờ đã thành tù lao động 
			khổ sai?! " Nhà nước khoan hồng, nhân dân rộng lượng " mà sao rừng 
			kế bên không cho mót củi, đốn cây mà lại bắt tù phải lội vào hang 
			sâu, núi thẳm- nơi đã từng là bản doanh của sư đoàn 711 CSBV, bị xóa 
			tên bởi Sư Đoàn 2BB và Biệt Động Quân mấy năm trước- để phá hầm, dở 
			xà, nhổ cột, gỡ kèo rồi còng lưng vác về trại dựng nhà hay để 
			dành chụm bếp?! Nếu đường đất lầy lội làm tù tàn binh té lên té 
			xuống chưa đủ làm cho kẻ coi tù thích chí, hả hê, thì màn lên núi 
			cột mấy thớt gỗ- rồi từng hai người một, kẻ đẩy, người kéo ngay từ 
			thượng nguồn của giòng suối để chuyển về tận trại- đúng là một hình 
			ảnh nô lệ bị ngược đãi như thời kim tự tháp Ai Cập 5000 năm về 
			trước. Trời vào đông, nước lạnh bầm da, tái thịt mà tù tàn binh thì 
			tất cả đều lưng trần, xà lỏn, chân không đạp đá sỏi mà đi còn đôi 
			dép thì được xỏ dây cẩn thận, đeo trên vai để lội nước cho dễ. Nước 
			uống thì đã có suối, còn hai nắm cơm mang theo chưa tới chỗ, đã 
			không còn một hột. Hành trình bao xa không rõ, nhưng sáng tù tàn 
			binh rời trại khi mặt trời tháng 12 chưa kịp ấm, chiều về đến nơi 
			thì cũng vừa tắt nắng. Giao gỗ cho quản trại xong, là ai nấy đều lo 
			xuống nhà bếp ngồi sưởi cho ấm rồi bỏ cả ăn để ngủ cho đã vì quá mệt 
			sau một ngày làm bạn với...hà bá.
			
			Nhắc đến cái ăn mới thấy thấm thía nỗi cơ cầu của người dân miền bắc 
			lúc nạn đói Ất Dậu xảy ra. Tuy không đến đỗi chết người như vào thời 
			đó, nhưng cái đói hành hạ tù tàn binh ngày nay còn tàn độc hơn cả 
			roi đòn hay bất cứ hành vi thô bạo nào khác. Cơn đói làm cho người 
			tù lả người vì kiệt lực, nhưng đồng thời nó cũng làm tinh thần suy 
			sụp và lụn bại đến tận cùng bằng số. Mỗi ngày ăn 3 bữa. Mỗi bữa 1 
			chén cơm chan nước muối hoặc mắm cá lấy nguyên xi từ thùng thiếc 
			chiết ra. Đói quá nên con gì nhúc nhích là tù chộp bắt để ăn. Rắn 
			rít, cóc nhái, chuột núi là cao lương mỹ vị. Dế, thoạt đầu là mồi 
			bắt chim khứu, sau trở thành nguồn đạm đỡ lòng. Vào rừng sâu rút 
			mây, đốn gỗ mà gặp được tổ ong thì chẳng khác nào tìm được đống 
			vàng. Nhấm nháp chúp mật trên miếng sáp cũng đủ " phê ", nói chi đến 
			chuyện bỏ nguyên chú ong con vào miệng đễ thấy chất đạm pha với mật 
			ngọt tuyệt vời đến mức khôn thể tả thành lời, nhứt là với những 
			người tù già nua, ốm đói.
			Họ, những kẻ say sưa trên ( cái là gọi là ) chiến thắng lịch sử cứ 
			ngày đêm đòi dạy cho kẻ thất thế những bài học lịch sử và lao động. 
			Nhưng lịch sử thì chỉ quanh quẩn ba mớ giáo điều hoặc tuyên truyền 
			phóng đại, còn lao động thì chỉ sau vài tháng phá rừng, cuốc đất, 
			đốn cây, thì trại tù trở thành một công viên với đủ loại hoa tìm 
			được trong rừng mang về trồng trước " nhà " hay treo, máng bên 
			trong. Trong cùng lúc đó thì lồng chim để nhốt khứu là loại " 
			trang sức " mà hầu như từ nhà 1 đến 20, nhà nào cũng có một, hai 
			lồng ngay trước cửa để nghe hót thật sướng tai. Dần dà cán bộ trại 
			cũng lân la " xin " tù vài cái mang qua bên kia vòng rào để nghe 
			chim hót cả ngày cho thỏa thính. Cũng vậy, điếu cày, loại làm bằng 
			ống tre, vốn là vật bất ly thân của bộ đội miền bắc, đã trở thành 
			sản phẩm thời thượng được cai tù và bộ đội đặt hàng dài dài cho tù 
			tàn binh có việc để làm, vì điếu cày do tù bỏ công chăm chút " nổ " 
			lớn hơn, trông kiểu cách hơn, thậm chí có người còn khắc, chạm những 
			hình ảnh đẹp mắt khiến cho đám " nón cối " và quản giáo đặt hàng 
			không ngớt. Ngay lúc đó " kẻ chiến thắng " đã mở mắt nhưng vẫn không 
			muốn ( hay không dám ) nhìn nhận tù tàn binh miền Nam rõ ràng là hơn 
			hẵn họ về mọi mặt!
			
			Cũng may là rừng núi còn thương người khốn cùng nên đọt dương xỉ, lá 
			tàu bay, lá giang và nhứt là rau má thì hầu như nơi nào cũng có. May 
			mắn cho chúng tôi là vì muốn hành xác những người từng là kẻ thù của 
			mình nên chúng cứ bắt chúng tôi hết leo núi, lên rừng rút mây hay 
			gánh gạo, gánh gỗ tận trong vùng Phước Sơn hẻo lánh nên mọi người 
			mới có dịp " cải thiện ". Hễ thấy bụi rau má ven đường là bất kể lời 
			hối thúc, hăm dọa hay nạt nộ của cảnh vệ, mọi người bỏ gánh để nhào 
			ngay xuống quơ, bứt cho đã tay rồi mới tiếp tục lên đường. Những 
			luống rau lang trồng ngay bên ngoài khu trại cũng được chiếu cố rất 
			tận tình, lén lút hoặc công khai ( nhờ toán lao động nhẹ, ngắt đọt 
			mang về chia nhau ăn ) kể cả khoai mì và cà chua trồng ngay sau 
			"nhà" cũng không kịp ra củ hay trái để giúp tù tàn binh có thêm chất 
			rau tươi qua ngày. Cứ vậy mà nén lòng cam phận để chấp nhận hoàn 
			cảnh và chịu đựng khổ hình để gượng sống và hy vọng vào một 
			ngày...như hôm nay!
			
			Mãi mê đắm mình trong suy tưởng mà chúng tôi đã ra tới bến xe quận 
			Hiệp Đức lúc nào không biết. Nói là bến cho thuận miệng chứ thật ra 
			đó chỉ là một bãi đậu trơ màu đất đỏ với duy nhứt hai gian nhà: căn 
			có nóc là nơi bán vé, còn gian nhà kế bên là khu chờ đợi với lưa 
			thưa vài băng ghế đóng tạm rất sơ sài. Chỉ không đầy nửa giờ là ba 
			chiếc xe đò Renault của thời Pháp - loại xe chạy liên tỉnh thường 
			được gọi là xe đò lỡ ( camionette ), phía sau có một tấm bửng để 
			thêm người đeo, vịn- rề rà tách bến để đưa đợt tù sau cùng ra khỏi 
			quận. Xe cỗ lỗ xỉ, người đông, chật chội đến ngộp thở nên một số 
			trong chúng tôi leo lên mui ngồi cho thoáng mát. Lại thêm một thoáng 
			bùi ngùi khi nhìn lại phía sau lưng với chập chùng nhấp nhô của màu 
			xanh rừng núi. Hôm " nhập trại " trời mưa trút nước, xe chở tù đóng 
			bạt kín mít và cai tù thì lăm lăm khẩu AK trên tay sẵn sàng nhả đạn. 
			Hôm nay thì trời mây quang đảng như muốn đón mừng những người vừa 
			hưởng chút không khí " tự do ", một thứ tự do tạm bợ bởi thân phận 
			đích thực chỉ là một phó thường dân không hơn, không kém.
			
			Tỉnh lộ nối các quận miền núi: Quế Sơn, Hiệp Đức với đồng bằng và 
			vùng biển phía đông đã hoang phế từ lâu nên lồi lõm đất đá và loang 
			lỡ hết mức. Xe chạy như rùa bò, dằn xóc liên tục nhưng hình như 
			không ai sốt ruột. Chúng tôi im lặng nhìn quanh như muốn thu hết 
			cảnh vật sau những tháng ngày chỉ biết có núi và rừng. Thỉnh thoảng 
			chỉ có vài câu trao đổi bâng quơ cho có chuyện để nói. Hầu như ai 
			cũng mang một vẻ đăm chiêu, tư lự rất xa xăm. Có lẽ ai cũng chung 
			một tâm sự như nhau: niềm vui sắp được sum họp với gia đình đang dần 
			dà nhường chỗ cho nỗi lo lắng về một tương lai nhiều bóng tối hơn 
			ánh sáng khi biết rằng mình vừa ra khỏi nhà tù nhỏ để bước vào loại 
			một loại tù ngục bao la hơn và u tối hơn nhiều. Thì thôi cũng đành! 
			Cuộc đời đã bị đóng khung từ khi nước mất, nhà tan nên làm gì cũng 
			phải ngậm hờn qua ải. Đã qua được thử thách ban đầu thì từ hôm nay 
			trở đi cuộc sống có cơ cầu cách mấy thì cũng còn có gia đình để 
			nương tựa, có bè bạn và đồng cảnh để ủi an và biết đâu ..." không lẽ 
			ta cứ mãi thế này?! "
			
			Rồi cũng ra đến ngã ba Thăng Bình! Quận miền biển nhưng sinh hoạt 
			thị tứ thì lại nằm ngay trên quốc lộ 1. Thăng Bình, quận cực bắc của 
			Quảng Tín ngày xưa vốn nhộn nhịp, sầm uất, nay cũng còn nét rộn ràng 
			của một khu kinh tế hàng đầu của vùng Quảng Nam mặc dù hoạt cảnh có 
			phần thu gọn vào trong các hàng quán dành cho bộ hành và xe cộ trên 
			các hành trình xuôi nam, ngược bắc. Xe chưa kịp vào bến là chúng tôi 
			đã lũ lượt leo xuống để rảo chân đến các quán cơm bình dân ngay 
			ngoài quốc lộ. Bữa cơm đích thực đầu tiên sau một năm cuốc rẫy, phá 
			rừng sao mà ngon hết biết! Ly cà phê và điếu thuốc có đầu lọc hiệu 
			President " phê " không kém gì " tép " thuốc lào đầu tiên trong đời. 
			Hình như không hẹn mà nên, ai cũng muốn tận hưởng chút hạnh phút đơn 
			giản mà nồng nàn này đến mức tối đa. Đến bây giờ mới có tiếng rì rào 
			bên câu chuyện trao đổi về việc ai vào nam, ai ra bắc. Hiếm hoi lắm 
			mới có người trong nam kẹt lại như Trần Ngọc Dũng và tôi, nên đa số 
			đều hẹn gặp tại Đà Nẵng, hay trong Tam Kỳ hoặc Quảng Ngãi. Trong bốn 
			người gắn bó với nhau suốt từ khi có tin được phóng thích thì anh 
			bạn " Trâu Điên " Trần Ngọc Dũng nhứt định: " Càng về gần Sài Gòn 
			bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu ! " nên sau bữa ăn là Dũng hăm hở bắt 
			tay từ giã chúng tôi rồi vọt nhanh ra ngã ba để bắt kịp một chiếc xe 
			đò về Bình Định vửa thả người và lấy khách dọc đường.
			
			Chia tay với Dũng mà trong lòng cũng thấy buồn buồn. Lẽ ra hai đứa 
			nên đi chung với nhau về Sàigòn cho có bạn, nhưng dù sao thì tôi 
			cũng đã gắn bó với đơn vị tại hậu cứ ở Phú Lộc, Hòa Khánh trong 
			những lúc dưỡng quân, cũng như bao lần ngược xuôi phố phường Đà Nẵng 
			hơn 15 tháng, nên vẫn còn những lưu luyến thật sâu lắng trong lòng. 
			Tình cảm cả ngày hôm nay thật khó diễn đạt cho đúng với tâm trạng 
			còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng Sài Gòn thì trước sau gì cũng sẽ là chốn 
			nương thân dài hạn, còn Đà Nẵng thì chỉ cách vài chục cây số! Không 
			trở lại thăm chốn xưa thì mai này biết bao giờ mới có dịp nhìn lại 
			khung trời kỷ niệm... và để nhớ một thời giày saut, áo trận?! Vì lẽ 
			đó nên tôi quyết định cùng với hai anh em Nguyễn Văn Bốn và Nguyễn 
			Văn Tài đón xe ngược bắc. Đêm nay có thể là đêm cuối dành cho sông 
			Hàn, Hùng Vương, Độc Lập, Chợ Cồn.... Sẽ là đêm thức trắng để gom 
			hết hình ảnh của phố xá và con người để mai này trở thành khúc phim 
			chiếu chậm của ký ức. Đà Nẵng ơi! Ta lại về đây! Phố phường ơi! Hãy 
			cùng bước chân lãng tử nối lại quá khứ vàng son của thời giày trận, 
			áo hoa để mãi mãi Đà Nẵng sẽ là tiếng đồng vọng dễ thương và ấm lòng 
			cho dù ở bất cứ phương trời nào!
			
			HUY VĂN
			Bóng người hay bụi 
			sương?
			Lần đầu nhập trận
			Ngược dòng thời gian
			Họa, phúc trong ngày
			50 năm thoáng 
			vội trong ngày
			Ukraine & VNCH
			Saigon xa đã tròn 
			năm
			Ngày về từ rừng 
			núi Hiệp Đức
			Trường Sơn bỏ 
			lại sau lưng
			Cuộc hành trình
			Chung gòng định phận
			Cuối cuộc hành trình 
			2020
			Xuân ở nơi nào?!
			Giấc mơ Xuân
			Ngày ra trại
			Một buỗi chiều xuân
			Nhánh mai vàng
			Đêm xuân
			Cuối cuộc hành trình
			Thân chiến 
			quốc, phận lưu vong
			Mộ Đức - Một ngày 
			vào hạ
			Từ Mỹ Tho đến 
			Garden Grove