 
		
	
			Thương tích
			Đă 50 năm
			Quê hưong ngàn trùng
			Đừng gọi tôi là ân 
			nhân
			Ngày chia tay
			Ánh trăng xưa
			Ngày đại thọ
			Ḷng sơn gửi tạm 
			giữa đất trời
			Mông lung
			Ḥn khô
			Đêm ngủ tôi mơ
			Cali mùa hạnh ngộ
			Nhớ măi
			Vẫn t́m em
			Gánh phù vân
			Quốc hận
			Nhắn lời
			Tháng 2! Xuân vẫn 
			ngát hương đời
			Nhớ xuân xưa
			Xin em
			Cũng đành thôi
			Mừng sinh nhật
			Phút cuối
			Đoản khúc Đà Lạt
			Chờ
			Hương ḷng
			Niềm riêng đêm thánh
			Nỗi đau thẩm
			T́nh tôi lăng mạn....
			Tàn thu
			Em cao nguyên
			Thu từ phương ấy 
			thu sang
			Kỷ nhân hồi
			Hoài Thu 
			Tịch liêu
			T́nh gửi từ 
			trên đôi cánh sắt
			Trầm tích
			Ngồi giữa Eden 
			nhớ Saigon 
			Nhớ quá
			T́m nhau
			Một khúc hoài
			Muộn màng
			Bước lưu vong
			Tháng 7
			Nh́n biển nhớ người
			Chuyện một đời người
			Rượu đầy làm sao cạn
			Bó tay!
			Vô thường bóng em
			Đón xuân
			Nói đi em
			Đêm Giáng Sinh xưa
			
			Nhớ em
			Cám ơn
			Đêm Thu
			Hồng Quế
			Tháng tám mưa rơi
			Ḷng vẫn xuân xanh
			Ước gì
			Nhớ áo xưa
			Hạ vàng trong kỷ niệm
			Tóc mây
			Lửa Việt
			Xuân giữa trời đông
			Khi muà xuân đến
			Bóng xuân
			Hẹn một mùa xuân
			Lời cho hải đảo
			Đừng do dự
			Một ṿng quay
			Một ḿnh trên căn gác
			Mùa hoa phượng
			Gọi thầm
			Thầm lặng
			Ngàn năm măi t́nh 
			chung
Đứng vùng lên
			Nỗi buồn vong quốc
			Ngày rời Đà Nẵng
			Câu hỏi
 
 
			Khi chiến cuộc tại Ukraine bùng nổ lúc gần cuối tháng 2/2022, dư 
			luận trong Cộng Đồng Tị Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ, đă có lời so sánh 
			Việt Nam Cộng Ḥa thuở xưa với Ukraine ngày nay. Phần lớn đều cho là 
			hai quốc gia này rất giống nhau về nhiều mặt. Chẳng hạn như cả hai 
			đều là thành lũy, kiêm tiền đồn chống quân xâm lược để bảo vệ chủ 
			quyền quốc gia. Riêng Ukraine th́ trở thành nạn nhân của một loại 
			phát xít mới, do Putin- tay lănh đạo gốc cựu đảng viên đảng Cộng Sản 
			Nga Sô- tuyên chiến rồi xua quân xâm lăng sau khi viện dẫn những lư 
			do rất mơ hồ. Mạc Tư Khoa cứ tưởng sẽ dễ dàng "nuốt chửng" xứ sở đă 
			từng nằm trong Liên Bang Xô Viết. Nào ngờ Quân, Dân Ukraine đă cương 
			quyết không đầu hàng trước sức mạnh quân sự, vốn được "quảng cáo" là 
			rất hùng hậu của địch quân.
			
			Vị Tổng Thống xuất thân từ giới sân khấu của Ukraine, ông Volodymyr 
			Zelensky càng dũng cảm hơn, khi từ chối lời đề nghị di tản của Tổng 
			Thống Mỹ Joe Biden "Cuộc chiến đang ở đây; tôi cần đạn dược, không 
			cần phải vọt." ( "The fight is here; I need ammunition, not a ride") 
			. Cho đến hôm nay- sau 4 tháng cương quyết sánh vai cùng Quân Dân 
			Ukraine- ông và những cộng sự viên trong chánh phủ của ḿnh, đă 
			nhiều lần nhận ṿng nguyệt quế của thế giới tự do trao tặng trong 
			tinh thần kính phục và ngưỡng mộ.
			
			Chưa biết chiến cuộc c̣n kéo dài tới chừng nào và cho dù đă mất 
			khoảng 20% lănh thổ vào tay Putin; cùng với 7 triệu người ( tức 1/3 
			dân số ) đang tỵ nạn hoặc lưu vong khắp nơi, nhưng Ukraine vẫn đang 
			nhận được sự ủng hộ kèm theo nguồn viện trợ ( nhân đạo, vũ khí và 
			tài chánh ) liên tục của Hoa Kỳ và đồng minh thuộc khối Nato. Đất 
			nước tang hoang, dân chúng tản lạc, nhưng hy vọng vẫn c̣n đó. 
			Ukraine chưa bỏ cuộc.
			
			Nh́n Ukraine rồi nhớ Việt Nam Cộng Ḥa và quá khứ của một thời "an 
			lac trong binh biến". Từ gần 50 năm qua, dư luận trong cộng đồng tỵ 
			nạn Cộng Sản không ngớt lên án hành động "tiền, hậu bất nhất" của 
			Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi lần hồi bỏ đất, nhượng dân, để sau 
			cùng làm mất phần đất tự do sau 20 năm tồn tại.
			Trước khi đi đến kết luận chánh phủ và Quân, Dân Việt Nam Cộng Ḥa 
			v́ sao đă phải thúc thủ trước sự xâm lăng của Cộng Sản, chỉ trong 
			ṿng hai năm sau khi kư kết Hiệp Định Paris ( có hiệu lực ngày 
			27-01-1973 ), thiết nghĩ cũng nên xét lại những diễn biến trọng yếu 
			lẫn then chốt, đă dẫn đến suy sụp toàn diện tại miền Nam Việt Nam 
			vào ngày 30/04/1975.
			
			Bởi v́:
1- Theo tŕnh tự thời gian, th́ ngay từ 
			khi có chủ quyền cho tới ngày cáo chung, Việt Nam Cộng Ḥa lúc nào 
			cũng phải đương đầu với gian nguy, trở ngại về mọi mặt. Ngay trong 
			thời Đệ I Cộng Ḥa của Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm, cũng đă h́nh thành 
			vô vàn khó khăn cho nền Dân Chủ non trẻ của miền Nam Việt Nam. Khởi 
			đầu là sự công khai ủng hộ ông Diệm của Mỹ sau khi Quốc Trưởng Bảo 
			Đại chánh thức mời ông Ngô Đ́nh Diệm về nước chấp chánh. Việc làm 
			này đă khiến cho những người thân Pháp, những đảng phái và thành 
			phần nhân sĩ yêu nước từng nằm gai nếm mật để chống Pháp ở trong 
			nước, thậm chí lănh đạo cao cấp của Quân Đội Quốc Gia lúc đó cũng 
			bất măn, rồi bất cộng tác với chánh phủ của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.
			
			Bên cạnh đó là áp lực từ Chính Trị đến Quân Sự của Hoa Kỳ, bao gồm 
			cả việc toàn quyền quyết định h́nh thái chiến tranh tại phía nam vĩ 
			tuyến 17. Nguy hiểm hơn hết, là sự chuẩn bị đấu tranh chính trị và 
			quân sự, nhằm thôn tính toàn miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt; bằng 
			cách cài, đặt đảng viên, cán bộ và cảm t́nh viên trong hạ tầng cơ sở 
			của toàn cơi nông thôn, thuộc lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa, ngay sau 
			khi Hiệp Định Genève 1954 được kư kết.
			
			2- Nền Đệ I Cộng Ḥa chưa kịp ổn định về nhiều mặt, đặc biệt là nội 
			an, th́ hành động công khai đối lập chính trị ( của Nhóm Cấp Tiến, 
			aka Nhóm Caravelle 24/06/1960 ), cùng những lần biểu t́nh, xuống 
			đường của Phật tử và Sinh viên- Học sinh, rồi đến cuộc binh biến ( 
			11/11/1960 )- tuy ngắn hạn và không thành công- nhưng đủ gây rối 
			loạn trong hàng ngũ Quân Đội. Ngần ấy sự việc đă lần hồi đưa chánh 
			phủ của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vào thế suy yếu, nếu như không muốn 
			nói là kiệt quệ, trong việc đối nội lẫn đối ngoại lúc bấy giờ.
			Sau cùng, cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 chính là vết dao trí mạng, 
			đâm vào công cuộc xây dựng và duy tŕ một thể chế tự do, dân chủ tại 
			miền Nam Việt Nam. Bởi từ đó cho tới khi cáo chung, chánh thể Việt 
			Nam Cộng Ḥa không có một ngày nào được yên ổn, nói chi tới việc 
			phát triển kinh tế và xây dựng đất nước.
			
			3- Sau cuộc đảo chánh 1963, th́ có thể nói tại miền Nam không có ai 
			"sáng giá" để chấp chánh, cũng như không ai có đủ "tầm cỡ" để đối 
			đầu với Hồ Chí Minh và cộng sự viên kiêm đệ tử của ông ta. Chỉ nội 
			vấn đề t́m một gương mặt đủ "bản lănh"; được hậu thuẫn sâu rộng và 
			có khả năng thật sự để lănh đạo miền Nam, cũng đă làm "nhức đầu" 
			những ai có ḷng nghĩ tới tương lai của một miền Nam tự do.
			
			Trong số những chính khách "gạo cội"- từ cụ Trần Văn Hữu, bác sĩ 
			Phan Huy Quát, bác sĩ Lê Văn Hoạch, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, cho đến 
			các chính khách như các cụ Phan Khắc Sửu, Mai Thọ Truyền, Trần Văn 
			Văn, Trần Văn Hương, Nguyễn Tường Tam, Trần Văn Tuyên...v/v...- hầu 
			như ai cũng đều có những "hạn chế" nhứt định trong khả năng và hậu 
			thuẫn cần phải có ( nội địa cũng như thế giới, nhứt là từ phía Hoa 
			Kỳ ). Chưa kể một số trong những vị này có khuynh hướng sinh hoạt 
			chính trị với tính cách của một nhân sĩ ( các cụ Phan Khắc Sửu, Mai 
			Thọ Truyền... ), hơn là một chính trị gia chuyên nghiệp. Hoặc có 
			người c̣n đi xa hơn nữa, bằng cách công khai phổ biến lập trường 
			"chung sống ḥa b́nh" với Hà Nội ( cụ Trần Văn Hữu ).
			
			Ngoài ra, họ không được giới quân nhân đang cầm quyền ủng hộ triệt 
			để từ sau cuộc đảo chánh 1/11/1963. Lư do hàng đầu là v́ những chính 
			khách này không đủ cương quyết và thiếu nhạy bén khi đưa ra những 
			quyết định liên quan tới quốc pḥng và an ninh lănh thổ, vốn là 
			những ưu tư hàng đầu của miền Nam lúc bấy giờ. Do đó, cuộc khủng 
			hoảng về mặt lănh đạo, đă dẫn tới việc quyết định "quân sự hóa" 
			chánh phủ miền Nam Việt Nam để vừa có tiềm lực chống địch, lại vừa 
			có đủ khả năng trị an và ổn định t́nh h́nh sau cơn quốc biến cuối 
			năm 1963.
			
			Chỉ sơ lược qua việc đảo chánh rồi "chỉnh lư" của giới quân nhân cầm 
			quyền trong 2 năm 1964 và 1965, cũng đủ cho người hiểu chuyện ngán 
			ngẩm cho thời cuộc và vận mệnh ngày càng trở nên thê thảm hơn của 
			Việt Nam Cộng Ḥa. Sự "bất ổn" về mặt lănh đạo để điều hành guồng 
			máy quốc gia sau cuộc đảo chánh năm 1963, đă làm chính trường miền 
			Nam ngày càng thêm rối rắm. V́ vậy, Hoa Kỳ ủng hộ, rồi tạo áp lực để 
			giới cầm quyền gốc nhà binh đứng ra lănh đạo nền Đệ II Cộng Ḥa, là 
			việc chẳng đặng đừng. Sau đó th́ ai cũng thấy, là đă có sự nhúng tay 
			rất sâu ( và rất rộng ) của Hoa Thịnh Đốn vào nội bộ và sinh hoạt 
			của giới lănh đạo miền Nam Việt Nam, thậm chí cho đến tận ngày sau 
			cùng của cuộc chiến.
			
			4- Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, chiêu bài chặn đứng sự bành trướng của 
			khối cộng sản- cả bên Âu Châu lẫn Đông Nam Á Châu- là một đề tài "ăn 
			khách" nhứt, để lôi kéo cử tri của các chính khách trong những sinh 
			hoạt chính trị, đặc biệt là tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ, vào thập 
			niên 50 và 60 của thế kỷ trước. Ngoài lư do này ra, c̣n một lư do 
			khác cũng không kém phần quan trọng mà không một chính khách, đảng 
			phái, hay ng̣i bút truyền thông nào đề cập tới. Đó là việc tiêu thụ 
			mớ vũ khí khổng lồ, thặng dư sau Đệ II Thế Chiến!
			
			Sau khi đă "thanh toán" hết mớ vũ khí phế thải, rồi có đà " làm ăn 
			phát đạt" nhờ sản xuất vũ khí, đạn dược, cùng những trang bị và tiếp 
			liệu phẩm quân sự, th́ con buôn kiêm tài phiệt của Mỹ đổ xô đi t́m 
			thị trường tiêu thụ vũ khí mới. Lửa chiến tranh v́ vậy mà cháy bùng 
			lên suốt 3 thập niên 50, 60 và 70 tại các quốc gia thuộc Trung Mỹ và 
			Châu Mỹ La Tinh ( Ba Tây, Chí Lợi, Panama...), Trung cận Đông và 
			vùng Lưỡng Hà ( Ai Cập, Syria, Palestine, Yemen, Iraq...), Trung Phi 
			( Kenya, Tanzania, Uganda...) Bắc Phi ( Algeria, Nigeria, Tunisia, 
			Sudan, Congo...) và Đông Nam Á Châu ( Đông Dương, Mă Lai, Nam Dương 
			).
			
			Cùng trong thời gian đó, "Uncle Sam" không ngần ngại đổ tiền của và 
			phương tiện vào việc đưa thêm quân ( tác chiến ) vào miền Nam Việt 
			Nam, bắt đầu từ 3500 Thủy Quân Lục Chiến tại Đà Nẵng, tháng 3/1965. 
			Đến cuối năm đó, con số đă lên tới 200,000 quân nhân! Những diễn 
			tiến sau đó th́ ai nấy đều đă rơ. Chiến tranh tại Việt Nam ngày càng 
			leo thang trong 3 năm tiếp theo. Sau đó nữa, Hoa Kỳ vẫn đổ tiền vào 
			việc tăng cường thiết bị quân sự và tiếp tục thảy đơn vị tác chiến 
			vào miền Nam, cùng lúc với việc oanh tạc một số mục tiêu ( mà họ cho 
			là "có tính cách chiến lược" ) ở bên kia vĩ tuyến 17.
			
			5- Suốt từ 1955 cho tới tháng 11/1963, Đệ I Cộng Ḥa của miền Nam 
			Việt Nam không ngớt đấu tranh để tự vệ và sinh tồn. Nhưng phải công 
			nhận một điều, đó là nếu không có sự hỗ trợ triệt để của Hoa Kỳ, th́ 
			nền Đệ I Cộng Ḥa này đă không thể tồn tại ngay từ khi Hoàng Đế Bảo 
			Đại- do không đủ khả năng và cũng không màng chính sự- kêu mời cụ 
			Diệm về nước chấp chánh. Tuy nhiên, sau đó cũng chính "bàn tay lông 
			lá" và thế lực vô h́nh phía sau hậu trường sân khấu chính trị ( của 
			Mỹ và trên thế giới ) đă cố t́nh khuynh loát nội t́nh của miền Nam 
			Việt Nam bằng cuộc đảo chánh đẫm máu ngày 1/11/1963.
			Bằng chứng hiển nhiên của sự "nhúng tay vào chính sự của miền Nam 
			Việt Nam mà không cần phải giấu diếm", là chuyện "Uncle Sam"- mà 
			Lucien Conein ( Pháp lai Mỹ, nhân viên CIA từ 1951 ) đại diện- đă bỏ 
			ra số tiền $42,000, mướn "sát thủ" cao cấp trong Quân Đội miền Nam, 
			kèm theo kịch bản đảo chánh Tổng Thống Diệm. Việc làm này, nghe nói 
			đă làm Hà Nội, nhứt là họ Hồ và đệ tử thân tín vô cùng mừng rỡ, thậm 
			chí ăn mừng. Không hẹn mà nên, cả Hà Nội lẫn Hoa Thịnh Đốn đều thở 
			phào, rồi nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu, để tỏ ra cũng tiếc thương 
			người lănh tụ vừa bị hăm hại tại Sài G̣n.
			
			Nếu dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, miền Nam chỉ vất vả nhiều 
			nhứt với phong trào sinh viên-học sinh, tôn giáo và đảng phái chính 
			trị; th́ đến thời Đệ Nhị Cộng Ḥa lại xuất hiện thêm áp lực của nào 
			là phản chiến ( trong nước cũng như trên thế giới ), rồi đối lập 
			chính trị và cả t́nh trạng phe phái trong Quân Đội. Thêm vào đó, c̣n 
			có thành phần thứ 3 ( tức nhóm chính trị gia "xôi thịt", chủ trương 
			ḥa hợp ḥa giải với Việt Cộng ) thương phế binh cắm dùi, kư giả 
			xuống đường đi ăn mày ( chống kiểm duyệt, lên án tham nhũng ), phong 
			trào sinh viên-học sinh ( chống Mỹ và chánh quyền Sài G̣n, phản đối 
			chiến tranh, kêu gọi ḥa b́nh theo kiểu của Cộng Sản ) và sự leo 
			thang chiến tranh của Hà Nội.
			
			Vấn đề đối ngoại và đối nội dù có làm nền Đệ II Cộng Ḥa "ngất ngư" 
			với các diễn biến dồn dập nói trên; nhưng t́nh thế càng gay cấn hơn 
			và phức tạp hơn, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải trực tiếp 
			đương đầu với những áp lực của Hoa Kỳ trong việc chấp nhận cho đám 
			"Mặt Trận" ngồi ngang hàng trong bàn Hội Nghị tại Paris chỉ vài 
			tháng sau khi cuộc hội đàm bắt đầu ( vào ngày 10/05/1968, với sự 
			tham dự tiên khởi của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Ḥa và Bắc Việt ). Cùng 
			lúc đó, vị nguyên thủ quốc gia của miền Nam không ngớt phản đối việc 
			đi đêm giữa Mỹ và CS Bắc Việt nhằm giải quyết cuộc chiến theo ư của 
			anh bạn "đồng minh" và Hà Nội.
			
			6- Không đợi cho tới 1968, kịch bản rút lui trong danh dự của Hoa Kỳ 
			tại Việt Nam, đă được tính toán rất kỹ lưỡng ngay từ sau khi Tổng 
			Thống John F Kennedy thành công trong việc bắt buộc Nga Sô tháo gỡ 
			giàn vũ khí có đầu đạn nguyên tử tại Cuba tháng 10/1962. Những năm 
			tiếp theo, sau khi nắm chắc được sự rạn nứt trong nội bộ Điện Cẩm 
			Linh ( Đảo chánh Nikita Khrushchev năm 1964 ) và biết rơ Nga Sô đă 
			có dấu hiệu kiệt quệ, v́ cố chạy đua với Hoa Kỳ trong việc trang bị 
			vơ khí nguyên tử và thám hiểm không gian; Hoa Thịnh Đốn tổ chức cuộc 
			gặp gỡ giữa Tổng Thống Lyndon Johnson và Thủ Tướng Alexei Kosygin 
			tại Hội Nghị thượng đỉnh Glassboro, New Jersey ( 23/6- 25/6/1967 ) 
			để bàn về việc hạn chế sản xuất vũ khí nguyên tử. Một bước đầu khả 
			quan để đôi bên tới gần nhau hơn!
			
			Hoa Kỳ cũng không bỏ lỡ cơ hội khai thác sự chia rẽ trầm trọng, dẫn 
			tới xung đột giữa hai đàn anh cao cấp nhứt trong khối Cộng Sản thế 
			giới ( chiến tranh Nga -Hoa 1969 ), để bắt đầu "ve văn, o bế" Trung 
			Cộng; lập kế hoạch dứt bỏ Việt Nam Cộng Ḥa trong thời gian nhanh 
			nhứt có thể được, bằng cách lên kế hoạch nuôi con Cọp xám Bắc Kinh 
			lớn mạnh, để một mặt tự lực tự cường, mặt khác ngăn chặn sự bành 
			trướng của con Gấu trắng Mạc Tư Khoa về phương đông, trước khi lột 
			xác trở thành môi trường kinh tế béo bở của tài phiệt thế giới nói 
			chung và của Mỹ, nói riêng.
			
			Hoa Kỳ cũng đă không ngớt gây rối rắm về chính trị, tôn giáo, xă hội 
			tại miền Nam Việt Nam trong suốt thập niên 60 và 70, bằng cách tạo 
			cơ hội và điều kiện cho phóng viên Âu-Mỹ tha hồ lấy tin, rồi trưng 
			bày những h́nh ảnh- mà họ cho là- mang đầy tính cách bạo lực và độc 
			tài của chánh quyền Sài G̣n. Sự thật, đó chỉ là cảnh đối phó với 
			việc phá rối trị an của một số phần tử đối lập, thân cộng, hoặc bị 
			Cộng Sản giựt dây ( và được phía Mỹ ngấm ngầm hỗ trợ ) nhằm giảm 
			thiểu sự công chính của chánh phủ miền Nam trước công luận thế giới 
			và tại Hoa Thịnh Đốn.
			
			Song song với hành vi nói trên, Hoa Kỳ "bật đèn xanh" cho giới báo 
			chí thiên tả và phản chiến tha hồ đăng những h́nh ảnh tiêu cực, nhằm 
			bêu rêu khả năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và lên án 
			sự kiêu binh của quân nhân các quốc gia đồng minh ( nhứt là Đại Hàn 
			). Không những vậy, Quốc Hội Mỹ về hùa với đám truyền thông bất nhân 
			nhân đó, công khai lên án chánh phủ Sài G̣n vi phạm Nhân Quyền và 
			Dân Quyền ( đàn áp tôn giáo, bắt bớ, giam cầm, tra tấn trái phép 
			những ai lên tiếng chống đối, kiểm duyệt báo chí...) và tố cáo các 
			giới chức chóp bu cũng như hàng sĩ quan cao cấp trong Quân Đội chỉ 
			biết tham nhũng, không lo chiến đấu mà chỉ chuyên tâm củng cố quyền 
			bính.
			
			Mọi thứ đều được "kịch bản hóa" một cách tuần tự và chặt chẽ suốt từ 
			đầu thập niên 60 qua tới thập niên 1970. Việt Nam Cộng Ḥa lần hồi 
			mất dần hậu thuẫn của Âu-Mỹ về mặt chính trị lẫn quân sự. Cuộc "chém 
			vè" của Mỹ đạt kết quả như mong ước khi có sự tham gia trực tiếp của 
			cựu chiến binh Mỹ trở về từ chiến trường Nam Việt Nam, cùng với sự 
			góp phần của các nhân sĩ và nghệ sĩ thuộc tầng lớp lănh tụ Văn Hóa- 
			Xă Hội và Nghệ Thuật của Hoa Kỳ. Nhưng đến khi máu đổ trong khuôn 
			viên đại học ( Kent State University tháng 3/1970 ), th́ thái độ dứt 
			khoát của Mỹ mới lộ nguyên h́nh.
			
			7- Chiến tranh leo thang, nhưng chỉ được vài năm sau khi đổ quân vào 
			Đà Nẵng, th́- như đă nói trên- Hoa Kỳ chuẩn bị cho cuộc tháo lui 
			bằng một "tuyệt phẩm" được dàn dựng thật tỉ mỉ, kể cả đưa vị tướng 
			một mắt Moshe Dayan của Do Thái qua Việt Nam với tư cách phóng viên 
			chiến trường, để ngôi sao quân sự này có lời ủng hộ sự tham chiến 
			của Hoa Kỳ trên vùng đất Đông Dương.
			
			Vị "Độc Nhăn Tướng Quân" quả có lời tâng bốc Hoa Kỳ khi cho rằng Hoa 
			Kỳ đă "đương đầu không phải với Hà Nội, hay du kích chiến tại miền 
			Nam, mà c̣n chứng tỏ khả năng hùng mạnh với cả thế giới tự do và Nga 
			Sô". Tuy nhiên, sau hai tuần quan sát sinh hoạt tại một số vùng nông 
			thôn nam phần và chứng kiến những đụng độ lẻ tẻ của các đơn vị cấp 
			nhỏ của Mỹ, ông Moshe Dayan đă có lời kết luận không mấy thuận lợi 
			cho Hoa Kỳ, khi ông cho là Mỹ tham chiến không phải chỉ muốn đánh 
			thắng trận, mà chỉ là v́ lư do chính trị. Câu nói này là nhận định 
			của vị tướng "anh hùng"- lúc đó đang bị thất sủng bên Do Thái- hay 
			chính là lời "trấn an" mà Hoa Kỳ muốn nhờ ông ta gián tiếp thông báo 
			cho khối Cộng Sản thế giới, đặc biệt là nhắn riêng cho Bắc Việt?!
			
			Không cần phải là những "ngôi sao" trên chiến trường, hay thuộc giới 
			chuyên viên về quân sự để tiên đoán và nhận định việc làm của Hoa Kỳ 
			tại Đông Dương; mà người ta chỉ cần chịu khó theo dơi báo chí của 
			thành phần thứ 3, đọc hoặc nghe những lời tuyên bố của khối đối lập 
			tại Sài G̣n, là có thể suy đoán được những ǵ họ muốn đề cập tới. 
			Ngoài ra, chỉ cần chú ư tới sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ và tin 
			tức phát hành trên báo chí cũng như trên các làn sóng truyền thông 
			của Âu- Mỹ; th́ người b́nh thường cũng sẽ đoán hiểu được chủ trương, 
			cùng những toan tính của Hoa Thịnh Đốn về những ǵ họ muốn thực hiện 
			tại Đông Nam Á và tại các nơi khác trên thế giới.
			
			Sự phủi tay và dứt bỏ của Hoa Kỳ về mặt quân sự, thậm chí đă bắt đầu 
			từ khi Ngũ Giác Đài tô, vẽ một bức tranh giả tạo về sự yếu kém về 
			tiềm năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa qua các trận đánh 
			lớn ( Ấp Bắc, Đồng Xoài, B́nh Giả, tổng công kích Tết Mậu Thân, Lam 
			Sơn 719 và Quảng Trị 1972 ),hay trong những lần "vượt biên" qua các 
			nước láng giềng ( Campuchia 1970, Hạ Lào 1971).
			Từ trong các tạp chí Time, Life, Newsweek, Washington Post..v/v... 
			cũng như trên các làn sóng truyền thanh, truyền h́nh; khán thính giả 
			tại Hoa Kỳ- khi theo dơi t́nh h́nh tại Việt Nam- chỉ thấy và nghe 
			những ǵ liên quan tới cảnh hoang tàn của chiến cuộc, tới sự can 
			trường của mấy chàng GI, cùng những lời hứa hẹn về một sự chiến 
			thắng của Quân Đội Mỹ. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn vắng 
			mặt. Hoặc nếu có, th́ chỉ được nhắc tới một cách qua loa, chiếu lệ 
			mà thôi.
			
			Cuối cùng th́ chuyện ǵ đến phải đến. Chưa đầy 2 năm sau khi ngồi 
			vào bàn Hội Nghị ( aka Cuộc Ḥa Đàm Paris 1968 ), Hoa Kỳ tuần tự rút 
			quân về ( Từ tháng 7/1969 tới tháng 3/1973 ) mặc dù chưa đạt được 
			thỏa ước rơ rệt. "Người bạn lớn" của Việt Nam Cộng Ḥa phủi tay, để 
			Cộng Sản Bắc Việt thôn tính toàn miền Nam Việt Nam. Phần kết thúc 
			của cuộc "bỏ của chạy lấy người" sau khi tham chiến tại Việt Nam của 
			Hoa Kỳ trong suốt 20 năm, đă diễn ra như ai nấy đều đă biết. Đó là 
			h́nh ảnh cuốn cờ, tháo chạy một cách rối rít của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở 
			Sài G̣n, ngày 30 tháng 4 năm 1975.
			
			8- Tất nhiên cảnh hạ màn không diễn ra một cách vội vă, mà phải được 
			dàn dựng từng phần, trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cho thật 
			ăn khớp với t́nh h́nh chính trị ( tại Hoa Kỳ cũng như trên thế giới 
			) và quân sự ( tại Đông Nam Á ). Như ai nấy đều biết, ngay từ khi 
			chấm dứt Đệ II Thế Chiến, số phận các nước nhược tiểu, chậm tiến, bị 
			đô hộ, đă được các cường quốc Âu- Mỹ bàn tính, định đoạt. Việt Nam 
			là một trong số đó.
			
			Nếu như Nga Sô tóm gọn Đông Âu sau khi cắt đôi nước Đức và gom trọn 
			các chư hầu phía đông ( gồm một số quốc gia có gốc từ đế quốc 
			Ottoman như Georgia, Armenia, Azerbaijan, Kyrgyzstan, 
			Kazakhstan...v/v... ) th́ Trung Cộng cũng quyết chí thôn tính Á Châu 
			tại vùng biển Nam Hải và các quần đảo phía tây Thái B́nh Dương ( 
			Philippines, Mă Lai, Đài Loan, Indonesia ) cũng như trên lục địa ( 
			chạy dài từ Việt Nam qua Ấn Độ, Tây Tạng, Tây Hồi, Miến Điện, Thái 
			Lan ).
			
			Hoa Thịnh Đốn, với thế lực vững chắc, nhân lực dồi dào và tài lực 
			gần như vô tận, đă khiến Nga Sô kiệt quệ tài chánh suốt thời kỳ 
			Chiến Tranh Lạnh, mà cao điểm là trang bị quốc pḥng, sản xuất vũ 
			khí cho chiến tranh quy ước, lẫn nguyên tử, rồi cắm đầu vào cuộc 
			chạy đua thám hiểm không gian từ 1947 cho tới thập niên 70. Nga Sô 
			lần hồi yếu thế v́ suy sụp nguồn tài nguyên và v́ những trận đấu đá 
			trong nội bộ của đảng cầm quyền, là điều tất nhiên.
			
			C̣n Trung Cộng- sau khi phát động "Cuộc Cách Mạng Văn Hóa", song 
			song với hàng loạt thanh trừng nội bộ từ 1965 đến đầu thập niên 1970 
			( thanh trừng Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài và đàn em Lâm Bưu, hạ bệ 
			Đặng Tiểu B́nh, tăng quyền bính cho Giang Thanh, vợ họ Mao và đổi 
			mới theo khuynh hướng "xét lại" kiểu Staline )- đă tập trung quyền 
			hành tuyệt đối vào tay chủ tịch Mao Xếnh Xáng. Mỹ chỉ chờ có thế để 
			công khai "sang số" cho việc rút lui khỏi Đông Dương, bằng cách gởi 
			một đoàn bóng bàn qua Bắc Kinh năm 1971, dọn đường cho Nixon đến 
			thăm Trung Cộng theo lời mời của họ Mao.
			
			Cái "bắt tay lịch sử" của ngày 21/02/1972- sau hai thập niên "hằm 
			hè" nhau giữa Mỹ và Trung Cộng- đă làm thay đổi bộ mặt chính trị 
			trên bàn cờ thế giới. Đó cũng là dấu hiệu cáo chung của nền Cộng Ḥa 
			son trẻ tại miền Nam Việt Nam, v́ Hoa Kỳ thẳng thừng và nặng tay cắt 
			giảm viện trợ quân sự cho Sài G̣n, trong khi khối Cộng của cả thế 
			giới tha hồ trang bị tối đa cho Hà Nội để thôn tính miền Nam cho 
			bằng được.
			
			Chỉ đúng một tháng sau khi Nixon "chia đất và vẽ lại bản đồ Á Châu" 
			với Mao Trạch Đông, Hà Nội điên cuồng xua quân đánh chiếm Quảng Trị 
			với một lực lượng hùng hậu chưa từng có ( Sư đoàn 304, 308, 324, 
			320, 325, 312, Mặt trận B5, tức khu vực phía Bắc của tỉnh Quảng Trị 
			gồm 4 trung đoàn, 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 
			trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương ). Đồng 
			thời, nhằm mục đích làm suy giảm tiềm năng chiến đấu của Quân Lực 
			Việt Nam Cộng Ḥa, CS Bắc Việt c̣n tấn công Tân Cảnh/Kon Tum tại 
			Quân Khu 2 và Lộc Ninh/An Lộc thuộc tỉnh B́nh Long ở Quân Khu 3.
			
			9- Dù muốn níu kéo, Việt Nam Cộng Ḥa vẫn không cách nào thay đổi ư 
			định bỏ rơi miền Nam Việt Nam của Hoa Thịnh Đốn. Mặc cho những lần 
			kêu gọi khẩn thiết, mặc cho lời cầu cứu liên tục suốt từ trước và 
			sau cuộc họp giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với Richard Nixon tại 
			Midway 1969, Hoa Kỳ vẫn cương quyết dồn Sài G̣n vào thế phải chấp 
			nhận sự thật phũ phàng là Hoa Thịnh Đốn muốn bỏ Đông Dương để rảnh 
			tay giải quyết t́nh h́nh tại Trung Đông và Ai Cập, đồng thời hậu 
			thuẫn cho Do Thái nhằm xử dụng con cháu Israel vào việc ổn định cán 
			cân quân sự cũng như t́nh h́nh tranh chấp tại khu vực Lưỡng Hà ( 
			Mesopotamia ) và Trung Cận Đông ( Iran, Iraq )
			
			Hoa Kỳ "chạy nước rút" trong việc bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa cho 
			khối Cộng khi phong trào phản chiến ngay tại mẫu quốc bùng nổ khắp 
			nơi; từ trong học đường ra tới các định chế tôn giáo, xă hội lẫn 
			quân sự sau vụ thảm sát 4 sinh viên ( và làm bị thương 9 sinh viên 
			khác ) tại Kent State University ( tháng 5/1970 ). Nhưng trước đó 
			khá lâu, Mỹ đă cảm thấy đủ an toàn kể từ khi ṿng đai an ninh quốc 
			gia của Hoa Kỳ đă được củng cố vững vàng sau khi Nga Sô rút toàn bộ 
			hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân ra khỏi Cuba vào cuối năm 1962, như 
			đă kể trên.
			
			Đă có một dạo Châu Mỹ La Tinh khá bất an khi một số quốc gia có 
			chánh phủ độc tài, thiên tả, lăm le bắt chước Cuba chuyển ḿnh sang 
			chế độ Cộng Sản ( Guatemala, Nicaragua, Chile, Colombia...) nhưng 
			các nơi này lần hồi từ bỏ ư định điên rồ đó, sau khi t́m thấy sự 
			vững vàng để phát triển ( vào các thập niên 60 và 70 ), là nên áp 
			dụng chế độ Tự Do Dân Chủ Giới Hạn ( Limited Democracy ). Điển h́nh 
			cho loại sinh hoạt chính trị "có giới hạn" này là Mễ Tây Cơ.
			
			Từ đó về sau, tuy nằm sát nách Hoa Kỳ và vẫn c̣n một số lính Nga đồn 
			trú trong nội địa ( để ḍm ngó động tịnh của Hoa Thịnh Đốn ), nhưng 
			Cuba không c̣n là mối đe dọa trực tiếp đối với nước Mỹ. Sự bế tắc 
			kinh tế và gánh nặng quân sự cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 ( 
			Phụ giúp người anh em Che Guevara "làm cách mạng" trong vùng Châu Mỹ 
			La Tinh và Trung Mỹ. Đánh mướn cho Nga Sô bên Phi Châu và Trung Đông 
			) đă làm cho Cuba "co ḿnh" thay đổi nhân sự và hiến pháp, để đủ sức 
			hội nhập vào sự lớn mạnh
			của khối Châu Mỹ La Tinh, song song với việc chạy đua về mặt phát 
			triển kinh tế với các quốc gia thuộc vùng biển Caribbean.
			
			Đối với Hoa Kỳ, bất quá Cuba chỉ là một loại "tiền đồn" mà Mỹ đồng ư 
			cho khối Cộng Sản nhuộm đỏ từ thập niên 50. Trong khi đó, Nga Sô và 
			các nước chư hầu Đông Âu, th́ bị các cường quốc thuộc khối tự do 
			hoặc trung lập ( Anh, Pháp, Ư, Tây Đức, Áo, Ḥa Lan, Phần Lan, Thụy 
			Điển, Na Uy...) kềm chân cứng ngắt ở phía Tây và Tây- Bắc của lục 
			địa Âu Châu. Phía Nam th́ Nga Sô bị Ba Tư ( Iran ) Thổ Nhĩ Kỳ và cả 
			A Phú Hăn chặn đứng. Riêng ở hướng Tây th́ gấu trắng Mạc Tư Khoa 
			đụng độ thường xuyên với cọp xám Bắc Kinh tại biên giới có chiều dài 
			2500 dặm của hai nước.
			
			Nga đă thế, trong khoảng thời gian từ thập niên 50 cho tới đầu thập 
			niên 70, Trung Cộng cũng "bí rị" không kém! Bắc Kinh tưởng chừng như 
			đă có thể làm bá chủ Á Châu sau khi chiếm Tân Cương, Nội Mông, Tây 
			Tạng và đẩy Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa sau Thế Chiến thứ II. 
			Nhưng Bắc Kinh đă phải khựng lại ở phía Tây Nam bởi "con rắn hổ 
			mang" Ấn Độ và các vương quốc Bhutan, Nepal, Miến Điện và Lào. Nhóm 
			này vốn là những quốc gia trung lập ( Ấn Độ ), theo chế độ Quân Chủ 
			Lập Hiến ( Bhutan, Lào, Nepal ) hoặc chịu sự điều hành của Độc Tài 
			Quân Quản ( Miến Điện ) vào lúc bấy giờ.
			
			Về hướng Đông Nam Á và vùng biển phía bắc Thái B́nh Dương ( biển 
			Đông ), tuy lần hồi khuynh loát và ảnh hưởng được các quốc gia Đông 
			Dương và tạo dựng Bắc Hàn thành một đàn em thân tín; Trung Cộng đă 
			phải chịu sự kiềm chế của một hàng rào an ninh thân Mỹ, bao gồm Đại 
			Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương, Thái Lan. 
			Như vậy, cả hai gă khổng lồ của phương Tây và Châu Á đều bị "đóng 
			khung" một cách chặt chẽ, cho nên Hoa Kỳ dù có để mất miền Nam Việt 
			Nam vào tay Cộng Sản Bắc Việt, th́ các quốc gia đồng minh vừa kể 
			trên cũng chẳng hề hấn ǵ.
			Huống chi khuynh hướng mới của thời đại nguyên tử là lấy Kinh Tế để 
			giải quyết xung đột Chính Trị. Do đó, Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại 
			"cắt dây chuông" với Sài G̣n; để vừa làm yên ḷng dân chúng trong 
			nước, vừa tiết kiệm xương máu, lại vừa không phải tiêu hao ngân sách 
			quốc pḥng ( vốn đă có lúc lên tới 26 tỷ đô la mỗi năm để tài trợ về 
			mọi mặt cho Việt Nam Cộng Ḥa ).
			
			Ngay tại lục địa Mỹ Châu th́ phía Bắc có Canada, hướng Nam có Mễ Tây 
			Cơ "bảo vệ" cho sự an toàn nội địa của Hoa Kỳ. Chướng ngại vật thiên 
			nhiên th́ có Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương. Hoa Kỳ "ấm" lưng ngay 
			tại "sân nhà", c̣n tại các lục địa khác th́ khối Cộng hết đường cục 
			cựa, v́ hàng rào an ninh cho Mỹ trên các lục địa Âu-Á vốn đă khá 
			chặt chẽ, lại c̣n ṿng đai ngoại vi bao gồm cả hai quốc gia vùng cực 
			Nam Thái B́nh Dương ( Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi ) cùng với các quần 
			đảo chạy suốt chiều ngang Thái B́nh Dương ( bao gồm Hạ Uy Di, 
			Midway, Marshall, Guam ). Cho nên Mỹ trút bỏ gánh nặng Đông Dương là 
			điều dĩ nhiên!
			
			10- Hoa Kỳ cố ư bỏ rơi miền Nam Việt Nam không phải chỉ v́ muốn tháo 
			bỏ một gánh nặng, mà c̣n có mục đích khác. Đó là dọn đường vào những 
			nơi cần phải đầu tư và trục lợi ( Bắc Phi, Trung Đông ), đặc biệt là 
			Trung Hoa Lục Địa. Đây là mục tiêu hàng đầu của Mỹ ở cuối thế kỷ 20. 
			V́ vậy, vào đầu năm 1975, cho dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ xin 
			viện trợ khẩn cấp có $300,000,000 ( tương đương với khoảng 8 Tỷ đô 
			la ngày nay ), Quốc Hội Hoa Kỳ cũng cương quyết bác bỏ.
			
			Cũng dễ hiểu thôi! Một khi "Anh đường anh, Tôi đường tôi. T́nh Nghĩa 
			đôi ta chỉ thế thôi" th́ lưu luyến mà chi! Vă lại, chỉ cần lời $1 ( 
			Một đô la! ) cho mỗi chiếc áo thun bán cho Trung Cộng th́ tài phiệt 
			thế giới ( và của Mỹ ) cũng thu về bạc Tỷ; huống chi thị trường tại 
			Trung Hoa lục địa không chỉ có quần áo mà thôi. Tiết kiệm được tiền 
			bạc, máu xương mà lại tha hồ nuôi béo con ḅ Bắc Kinh để "vắt sữa 
			lâu dài" th́ tội ǵ không thực hiện!
			
			Điểm lại con số chính thức được Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ công bố vào đầu 
			năm 1975, người ta thấy ngay v́ sao Mỹ đă quyết tâm "hiến tặng" miền 
			Nam Việt Nam cho Cộng Sản Nga- Tàu ( và đàn em Bắc Việt của họ ) một 
			cách không thương tiếc. Những con số đó như sau:
			Kinh phí tổng quát
			- Từ 1961 cho tới cuối 1974 Hoa Kỳ đổ vào Nam Việt Nam tổng cộng 141 
			Tỷ đô la ( tính luôn lương của 2,600,000 người lính đă phục vụ trong 
			thời gian 14 năm đó )
			- Cao điểm của kinh phí này nằm trong 4 năm từ 1967 tới 1970. Chi 
			tiết gồm có 1967= $22.2 Tỷ, 1968= $26.3 Tỷ, 1969= $26.5 Tỷ và 1970= 
			$18.5 Tỷ.
			Thiệt hại ( nhân mạng và quân dụng )
			- 58,272 quân nhân hy sinh và mất tích tại chiến trường ( trong số 
			này có 8 phụ nữ )
			- 4,900 trực thăng
			- 3,700 phi cơ các loại
			- Quân dụng bỏ lại sau khi rút quân= $2 Tỷ
			
			11- Chỉ tội nghiệp cho chánh phủ tại Sài G̣n đă phải tất tả, chạy 
			vạy khắp nơi để vay nợ, đồng thời "năn nỉ" Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ 
			quân sự, cho dù giờ cuối chỉ c̣n là những con số vô nghĩa ( Nixon đề 
			nghị $1,4 Tỷ vào tháng 7/1974, Quốc Hội Mỹ cắt xuống c̣n $700,000 
			cho tài khóa của 1975. Chờ hoài không thấy, nên tháng 1/1975, Tổng 
			Thống Thiệu muối mặt xin $300 triệu ( vốn đă được Tổng Thống Gerald 
			Ford phê duyệt ) nhưng cũng bị Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối thẳng thừng.
			
			Niềm hy vọng cuối cùng cũng tiêu tan, v́ bức thư hứa hẹn của Nixon 
			trao tận tay cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đầu năm 1973, đúng ba 
			tuần trước khi Ḥa Đàm Paris có hiệu lực ( vào ngày 27/1/1973 ) đă 
			không c̣n giá trị, khi Nixon từ chức vào tháng 10/1974. " Cảnh diễn" 
			sau cùng của Nixon đă hoàn tất. Việc ông từ chức cũng là nhát dao 
			chí tử đâm vào Nền Đệ II Cộng Ḥa. Sự "vẫy vùng" của Tổng Thống 
			Thiệu trở nên vô nghĩa, khi chính ông cũng bị bắt buộc phải rời chức 
			vụ rồi lưu vong ( trong âm thầm và lo lắng, đến mức phải thủ theo 
			một khẩu súng ngắn để pḥng thân ).
			
			Nếu điểm lại t́nh h́nh chính trị tại Hoa Kỳ từ 1972 cho tới khi xảy 
			ra vụ Watergate, rồi để ư nguyên do v́ sao Tổng Thống Nixon phải từ 
			chức người ta sẽ nh́n thấy ngay nhiều điểm khác thường.
			Chẳng hạn như:
			- Mắc mớ ǵ kẻ được chỉ định làm người canh gác cho "5 tên trộm 
			Watergate" lại vô ư mê coi phim kinh dị đến đỗi không phát giác xe 
			cảnh sát đă đến nơi để lên lầu 6 lùng bắt quả tang 5 tên đồng bọn 
			của anh ta?
			- Mắc mớ ǵ khi chuyện chưa tới đâu mà Nixon đă vội từ chức?! Vậy có 
			phải đây là màn kịch sau cùng ( để phủi tay, dứt áo ra đi ) hay 
			không, khi mà Nixon vẫn c̣n nợ Tổng Thống Thiệu và Quân Dân Việt Nam 
			Cộng Ḥa một lời cam kết bằng giấy mực hẳn ḥi?
			
			Dấu hiệu chữ V ( Victory ) và nụ cười toe toét của Tổng Thống Nixon 
			trước khi bước vào trực thăng là hành động phải có để giữ sĩ diện 
			hay đó là sự hài ḷng, thỏa măn v́ đă xong "vai diễn" để rời khỏi 
			chính trường một cách an toàn, cho dù tên tuổi lúc đó bị mang tai 
			tiếng không nhỏ!? Mà có mang tai tiếng th́ đă sao? Tiền hưu vẫn đầy 
			đủ, thư viện của tổng thống và mọi ưu đăi khác vẫn được cung ứng cho 
			tới khi ĺa đời. Ba mớ x́ xào của dư luận th́ nhằm nḥ ǵ! Trong 
			lịch sử Hoa Kỳ, Richard Nixon vẫn là Tổng Thống thứ 37!
			Tổng Thống Nixon từ chức. Cuộc chơi chấm dứt! Lời cam kết với Việt 
			Nam Cộng Ḥa đă bị vô hiệu hóa! Hạ màn!!!
			
			12- Tóm lại, những điểm nêu trên đây chỉ có thể hiểu như là phần sơ 
			lược của những sự việc bên lề, hoặc liên quan trực tiếp đến cuộc 
			chiến và những hệ lụy của nó. Bán đứng và bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, 
			là chuyện tất nhiên phải xảy ra sau 30 năm "dàn cảnh" ( 1945-1975 ) 
			và thực hiện ư đồ của "bàn tay lông lá" đằng sau hậu trường của thế 
			giới tài phiệt!
			Cuộc chiến tại Việt Nam đă tốn không biết bao nhiêu giấy mực, bao 
			nhiêu tranh căi. Thậm chí c̣n có những chiêu, tṛ, lật lọng rất gian 
			trá và thâm hiểm tàng ẩn đâu đó trong cái bề ngoài được tô phết bằng 
			những mỹ từ hết sức đẹp đẽ, dành cho phần đất từng được gọi là "tiền 
			đồn chống Cộng" tại Đông Nam Á.
			
			Biết đă đến lúc phải "ra đi", v́ càng để lâu càng thêm phiền và v́ 
			áp lực nặng nề của dân chúng Mỹ và cộng đồng thế giới ( Ồn ào nhứt 
			là đám báo chí và chính trị gia thiên tả ); nên từ 1968 Hoa Thịnh 
			Đốn phải hấp tấp t́m đủ mọi biện pháp để "rút lui trong danh dự". Họ 
			thậm chí đă không ngần ngại vừa "làm dữ" ( đe dọa tánh mạng ), vừa 
			phải "trấn an" Tổng Thống Thiệu mau chóng kư tên vào bản Hiệp Định 
			Paris ( bức thư tay của Nixon ). Ngoài ra, khi chịu hết nổi những áp 
			lực của chính giới lẫn người dân trong nước, Tổng Thống Nixon không 
			ngần ngại tung Ngoại Trưởng Kissinger chạy đôn, chạy đáo khắp nơi, 
			kể cả "đi đêm" với Bắc Việt ( Lê Đức Thọ ) để nhanh chóng rút lui 
			khỏi Việt Nam.
			
			Tuy nhiên, trước đó, nếu đặt ḿnh vào hoàn cảnh của một nhân vật cao 
			cấp tại Ṭa Bạch Ốc, hay Ngũ Giác Đài- và nếu bỏ qua "chân lư" làm 
			giàu nhờ gây chiến tranh mà đa số dư luận đă gán ghép cho Mỹ- th́ 
			người ta sẽ thông cảm cho những lănh đạo của Mỹ ở chỗ:
			- Đă đành Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng là nơi thanh toán 
			thặng dư và thử nghiệm vũ khí mới, đồng thời cũng là môi trường lư 
			tưởng để áp dụng lần đầu lư thuyết của chiến thuật chống du kích ( 
			để sau đó áp dụng trên các chiến trường Trung - Nam Mỹ ); nhưng Hoa 
			Kỳ đă gặp phải trở ngại đầu tiên là " Địch biết Ta, mà Ta không biết 
			Địch là Ai". 
			
			Từ thành thị tới thôn quê miền Nam, du kích cộng sản và dân quê chân 
			chất, nh́n bề ngoài th́ họ đều giống y chang như nhau. Lính ( Mỹ ) 
			chưa bước chân vô làng th́ bị bắn tỉa. Vô trong làng rồi th́ kẻ cầm 
			súng biến mất. V́ vậy khi chàng mắt xanh mũi lơ điên tiết lên th́ 
			chỉ c̣n có nước đốt nhà, thảy lựu đạn xuống hầm, trói tay mọi người 
			t́nh nghi, không phân biệt trẻ, già, nam, nữ. Hoặc đi xa hơn, là có 
			cảnh tàn sát cả một thôn làng như vụ Mỹ Lai ( Quảng Ngăi 1968 ).
			
			- Đă đành sự tham chiến tại Đông Dương là để phục vụ mưu đồ chính 
			trị chung cho quyền lợi của tài phiệt quốc tế và riêng của Hoa Kỳ; 
			nhưng chính giới Mỹ đă khá "nhức đầu" khi mưu t́m một giải pháp 
			thích hợp để mau chóng kết thúc những ǵ đă làm nhưng vẫn hao binh, 
			tổn tướng và thiệt hại về cả mặt tinh thần, vật chất lẫn "chánh 
			nghĩa" một cách đáng kể.
			Điển h́nh như:
			a/ Thuốc khai quang không đủ hiệu quả để lùa bọn vẹm ra khỏi hang 
			sâu, rừng thẳm, mà ngược lại, đă có không ít GI đă bị dính chất độc 
			Da Cam ( Có báo cáo cho biết là "cả trăm ngàn quân nhân Hoa Kỳ- 
			trong số hơn 2 Triệu GI đă từng sang Việt Nam- bị bệnh bởi chất độc 
			Da Cam ).
			b/ Khá đông quân nhân qua phục vụ tại Việt Nam đều là "nhóc t́" mới 
			chân ướt, chân ráo rời khỏi mái trường trung học. Đa số trong bọn 
			họ; nếu không trở thành "những kẻ lạm sát trẻ em" ( Baby Killers ), 
			hay những "gă Hippie mặc áo Lính", th́ cũng không ít th́ nhiều, dần 
			dà làm quen với tật hút sách, để rồi trở nên nghiện ngập Cần Sa ( 
			Marijuana ), Bạch Phiến ( Heroin ), hoặc LSD ( Lysergic acid 
			diethylamide/ chất gây ảo giác ). Điều oái oăm hơn hết, là một số 
			các vị chỉ huy ( trung cấp ) của mấy chàng trai mới "dậy th́" đó, 
			lại là nguồn cung cấp mớ "thuốc độc" vừa kể trên cho họ "hít" đă 
			đời!
			
			c/ Trong gần 20 năm " sa lầy" tại Việt Nam ( 1955-1975 ) H́nh ảnh 
			của Mỹ quốc lần hồi biến thể từ vị thế của một cứu tinh của các dân 
			tộc tại Đông Dương ( chặn đứng sự bành trướng của Cộng Sản Tàu xuống 
			phía Nam ) đến "kẻ bại trận" -dù không quá nhục nhă nhưng cũng đủ- 
			để mang vết nhơ trong lịch sử 300 năm lặp quốc. Công chúng Mỹ kết 
			tội lănh đạo của họ là đă đem con dân nướng vào lửa tại một chiến 
			trường xa lơ xa lắc, thậm chí cả ngàn người không t́m thấy đâu.
			
			Những thanh niên đó ( t́nh nguyện cũng như thi hành quân dịch ) như 
			đă "bốc hơi" khỏi trái đất. Họ bị tan xác khi chiến đấu, bị bắt làm 
			tù binh rồi bị đưa qua Nga để đám "Lêninnít" thẩm tra ( rồi thủ tiêu 
			) chăng? Trong những năm sau cùng của cuộc chiến, ngày nào chánh phủ 
			cũng bị dân chúng ( qua nhóm dân biểu địa phương ) và báo chí vặn 
			vẹo, thắc mắc vụ "đem con bỏ chợ" nên phủi tay, bỏ mặc cho "Hai phe 
			Việt Nam tự giải quyết với nhau".
			
			Chỉ cần bấy nhiêu vấn đề thôi, cũng đă đủ lư do để Hoa Kỳ " chém 
			vè", huống chi gánh nặng Quân sự và Kinh tế của Mỹ dưới danh nghĩa 
			một "cường quốc" không chỉ dành cho Á Châu. Đối với Hoa Thịnh Đốn, 
			đổi Việt Nam Cộng Ḥa để đạt được quyền lợi và ảnh hưởng tại các nơi 
			khác ở khắp nơi trên thế giới- xét cho cùng- là một cái giá phải 
			chăng, khi mà Địa Lợi ( từ lâu ) không có, Thiên Thời đă hết, mà 
			Nhân Ḥa cũng chẳng c̣n ư nghĩa. Mỹ phải "đi". Việt Nam Cộng Ḥa 
			phải "chết". Chấm hết.
			
			V́ vậy:
			Cảm thương cho Ukraine ngày nay cũng lâm vào hoàn cảnh bi đát v́ 
			thảm họa chiến tranh, rồi kính phục sự anh dũng của Quân và Dân đất 
			nước này là điều tất nhiên. Nhưng từ đó mà cho rằng lănh đạo của 
			Việt Nam Cộng Ḥa yếu, hèn nên đă để mất nước vào tay Cộng Sản th́ 
			quả là không công bằng và tàn nhẫn làm sao!
			
			Chánh phủ của nền Đệ II Cộng Ḥa khi xưa không có "diễm phúc" như 
			Ukraine, khi nước này được lănh đạo của thế giới tự do thay nhau ghé 
			thăm để an ủi, khích lệ và hứa hẹn, rồi thực hiện những ǵ họ cam 
			kết. Vũ khí và tiếp liệu phẩm được gởi đến Ukraine một cách liên 
			tục. Toàn là những thứ tân tiến, đủ để tự vệ và đương đầu với địch 
			thủ. Cho dù phương tiện và nhân sự của Ukraine có phần thua kém Nga 
			Sô về mặt số lượng, nhưng dù bị hạn chế, phẩm chất của số vũ khí mà 
			Quân Đội Ukraine đang có trong tay cũng là loại tối tân không thua 
			ǵ vũ khí của phe địch.
			
			C̣n miền Nam Việt Nam ( cả Đệ I lẫn Đệ II Cộng Ḥa th́ thế nào? Chỉ 
			nội h́nh ảnh của một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ôm cây 
			Garand M1, Mas 36 ( Fusil à répétition 7 mm 5 M.36), hay súng 
			Carbine ( cũng M1) để chiến đấu mà thấy tội nghiệp cho họ và tức tối 
			cho sự nhỏ giọt của Hoa Kỳ về mặt trang bị cho miền Nam, so với 
			những ǵ Bắc Việt nhận được từ khối Cộng Sản quốc tế. Năm 1965, Việt 
			Cộng đă được tiếp tế AK 47, B40, B 41, RPD... ( chiến thắng Vũng Rô 
			). Trong khi đó, người lính trong Nam vẫn "ạch đụi" với Bazooka M1 & 
			M20, Winchester shotgun, Garand, Carbine, Thompson, đại liên 30. 
			Toàn là vũ khí từ thời Đệ II Thế Chiến!
			
			Ukraine ngày nay có được vũ khí hiện đại để tự vệ. Việt Nam Cộng Ḥa 
			thuở xưa chỉ có trong tay những "đồ cổ" để sinh tồn. Lănh Đạo của 
			Ukraine có nhiều cơ hội để gởi lời cầu cứu và được hoan nghênh khắp 
			nơi, c̣n lănh đạo của hai nền Cộng Ḥa tại Việt Nam, đặc biệt là 
			Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, 
			luôn "được" báo chí thiên tả khắp thế giới gán cho nhăn hiệu độc 
			tài, tham nhũng, cùng những lời b́nh phẩm cay độc và nhảm nhí của 
			đám báo chí thân cộng trong nước khi cho là ông Thiệu bất tài, dị 
			đoan và dùng toàn là tay chân, bộ hạ để lănh đạo.
			Thế giới xa lánh. "Đồng Minh" lănh đạm. Trong nội địa th́ hết 1/2 
			dân t́nh đă bị nhồi sọ, khuynh loát, ảnh hưởng, không chỉ bởi bọn 
			Cộng Sản mà c̣n do đám quốc gia thờ ma cộng sản tiếp tay quậy phá. 
			Lănh tụ nào có thể làm được ǵ hơn?!
			
			Nhân nói tới báo chí và "lực lượng thông tin" khá hùng hậu của Mỹ, 
			thiết tưởng cũng nên nhớ lại vai tṛ và nhiệm vụ của họ khi có mặt 
			tại miền Nam Việt Nam và lúc đăng tải tin tức trong nội địa Hoa Kỳ. 
			Một số lớn đă từng theo các đơn vị tham chiến, hoặc đến Việt Nam để 
			thu lượm tin tức cho những hăng thông tấn mà họ cộng tác. Họ từng là 
			những thành phần có thể gọi là chứng nhân, nhưng khi bài vở hoặc 
			h́nh ảnh được cho lên mặt báo chí hoặc đặc san, th́ lại trở thành 
			phóng sự kèm quan điểm của những kẻ đúng bên lề cuộc chiến.
			
			Đó là v́ sự kiểm duyệt của chánh phủ Mỹ ( nhứt là phe Dân Chủ ) lúc 
			đó, hoặc bởi v́ đa số trong bọn họ chỉ ngồi lấy tin tức chiến sự từ 
			trong khách sạn Caravelle, ghi nhận dữ kiện từ những bữa ăn bên lề 
			đường Catinat, hay tại nơi một nơi nổi tiếng có tên gọi là Khách Sạn 
			Continental, hoặc từ các buổi họp báo của Bộ Tư Lệnh các đơn vị Hoa 
			Kỳ mỗi chiều vào lúc 17h00 tại trung tâm giao dịch báo chí ( Joint 
			United States Public Affairs Office tức JUSPAO) đặt tại hội trường 
			của Khách Sạn Rex. Hai nơi này chỉ cách nhau chừng 100 mét.
			
			Siêng hơn một chút, nếu muốn biết thêm chi tiết về Tiếp Liệu, T́nh 
			Báo hay các tin khác th́ đến Ṭa Đại Sứ Mỹ, hay đến văn pḥng của 
			MACV ( đặt tại số 606 đường Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn, sau đó là tại 
			137 Pasteur, Sài G̣n ) và sau cùng là tại cơ quan DAO ( c̣n gọi là 
			"Ngũ Giác Đài phương Đông" trong phi trường Tân Sơn Nhứt ). 
			
			Đă có hơn 300 "Nhà Báo" làm việc cho các hăng thông tấn của Mỹ nói 
			chung ( Print Journalist/ Kư Giả Viết Tin. Photo Journalist, / Phóng 
			Viên phát tin bằng h́nh ảnh. Broadcast Journalist, Reporter/ Thông 
			Tín Viên. War correspondent/ Phóng viên chiến trường ) đă có hơn 60 
			người bỏ ḿnh v́ nghề nghiệp. Trong số họ Dickey Chapelle là người 
			nữ phóng viên chiến trường đầu tiên của thế giới và của riêng Hoa 
			Kỳ, hy sinh v́ nghề nghiệp tại Việt Nam.
			
			Trong số những Phóng Viên/ Thông Tín Viên c̣n lại, có bao người, bao 
			nhiêu bức ảnh được thế giới biết tới? Câu trả lời là số lượng ảnh 
			của họ rất nhỏ nhoi, mà toàn là những tin tức và h́nh ảnh vô cùng 
			bất lợi, nếu không muốn nói là phản tác dụng cho phía Mỹ và nhứt là 
			cho Việt Nam Cộng Ḥa. C̣n tên tuổi của những tác giả cũng khiêm 
			nhường không kém! ( 22 người, mà nổi bật nhứt là Peter Arnett! ). Đa 
			số những h́nh ảnh đoạt giải thưởng thế giới đó đều là những ảnh mà 
			báo chí Mỹ thường ghi kèm câu cảnh báo "Warning: graphic contents"!
			
			Có thể tóm tắt là trong chiến tranh Việt Nam, ngành truyền thông Hoa 
			Kỳ đă bị chánh phủ bưng bít hay kiểm duyệt đến như vậy, huống hồ ǵ 
			những sinh hoạt thông tấn khác. Không ai được biết tới sự thật đằng 
			sau những ǵ đă được thực hiện. Có chăng chỉ là nhữ ṛ rỉ đó đây của 
			những nguồn tin tin tức từ cấp lănh đạo cao nhứt ở Ṭa Bạch Ốc và 
			Ngũ Giác Đài ở Hoa Thịnh Đốn. Những ǵ mà chánh phủ Việt Nam Cộng 
			Ḥa muốn biết, cần biết và được biết, đều từ Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài 
			G̣n mà ra. Có thể nói, vị Đại Sứ Mỹ và những phụ tá hay nhân viên 
			thân cận ( đa số gốc CIA ) của ông ta là nguồn thông tin, là tai mắt 
			của các lănh đạo miền Nam ngày xưa.
			
			Điều này có nghĩa là ngoài Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng 
			Trần Thiện Khiêm và Đại Tướng Cao Văn Viên- là những người mà dư 
			luận cho họ là cộng tác viên của CIA- th́ những người khác đều là 
			những người "mù sờ voi" không hơn, không kém! Cũng chính v́ vậy mà 
			rất nhiều người đă không ngần ngại kết luận là lănh đạo miền Nam bất 
			tài, nhu nhược hèn, kém, chỉ biết vinh thân, ph́ gia bằng cách tham 
			nhũng và cay độc hơn hết là làm giàu trên xương máu chiến sĩ của 
			Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thôi th́ đủ thứ lời lẽ dành cho những 
			người ngă ngựa ( Tổng Thống Thiệu ) hay đă bị thảm sát ( Tổng Thống 
			Diệm và những bào đệ của ông ).
			
			Ngoài ra, có quá đáng lắm không, khi dư luận thẳng thừng kết tội 
			lănh đạo Việt Nam Cộng Ḥa đă đui mù "nuôi ong tay áo" khi lần lượt 
			trọng dụng các điệp viên nhị trùng, thậm chí có thể là "tam trùng" ( 
			như Vũ Ngọc Nha, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Lê 
			Hữu Thúy, Trần Ngọc Châu...)? Sao không nghĩ là những tay "nhị 
			trùng" hay "tam trùng" đó, đều là những người được Mỹ bảo vệ và xử 
			dụng như những con cờ trong "ván bài gián điệp" giữa CIA và Hà Nội- 
			hoặc "sâu xa" hơn nữa- là giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản quốc tế trong cuộc 
			chiến "Dân Chủ- Tự Do đối đầu với Thế Giới Đại Đồng"?! Cho dù có bị 
			Cảnh Sát Quốc Gia bắt, cho dù bị cầm tù ( ở Côn Đảo hay Chí Ḥa ) 
			th́ họ vẫn "phây phây" chờ ngày được thả ra khỏi xà lim để rồi tiếp 
			tục công việc... làm gián điệp!
			
			Nếu cần, th́ cũng nên nhớ lại những sắp xếp, cũng như "kịch bản" của 
			Hoa Kỳ trong việc lần hồi xóa sổ ư thức hệ Cộng Sản bằng những cuộc 
			chiến tranh giải phóng, thực chất là nội chiến tại các nước ở Châu 
			Phi, Châu Mỹ La Tinh. C̣n riêng tại Đông Dương, tuy phức tạp hơn, 
			lâu dài hơn, tốn kém hơn, nhưng rốt cuộc mục đích tối hậu vẫn là 
			châm ngôn "Dùng Chiến Tranh để làm giàu cho Kinh Tế. Lấy Kinh Tế 
			khuynh loát Chính Trị".
			Đây chính là cách tài phiệt thế giới, mà điển h́nh là Hoa Kỳ đă thực 
			hiện trong suốt 70 năm qua ( tức sau khi kết thúc Đệ II Thế Chiến 
			tới nay!) khi nhúng tay vào những quốc gia- chậm tiến cũng như đang 
			trên đà phát triển- trên khắp các lục địa, từ Âu sang Á, từ Bắc 
			xuống Nam.
			
			Đă nói tới "kịch bản" th́ không nghĩ tới hoàn cảnh bị "đóng khung" 
			về mọi mặt của cả hai nền Cộng Ḥa tại miền Nam Việt Nam, nhứt là Đệ 
			II Cộng Ḥa, khi mà- hơn bao giờ hết- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă 
			phải cùng một lúc đương đầu với thù trong ( âm mưu đảo chánh, đối 
			lập, thân cộng, trung lập giả tạo hay c̣n gọi là thành phần thứ 3, 
			phản chiến, chống đối của các tôn giáo ) và giặc ngoài ( Sự xâm nhập 
			của bộ đội Cộng Sản Bắc Việt từ Bắc vô Nam như đi vào chỗ không 
			người ) cùng với áp lực nặng nề từ phía Mỹ.
			
			Nhớ tới những ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa "đơn thân độc mă" 
			chiến đấu trong sự thiếu thốn và "cô đơn" cùng cực, người ta nghĩ 
			ngay tới h́nh ảnh một anh vơ sĩ thương đài và như đă bị trói hết hai 
			tay. Đạn dược phải tiết kiệm. Quân dụng eo hẹp. Quân nhu, Quân cụ 
			đều cạn kiệt. Mọi thứ dự trữ chỉ c̣n có 2, 3 tháng. Trong khi đó 
			địch quân tiến quân như thế chẻ tre. Sự sụp đổ đến quá nhanh. Từ sau 
			ngày mất nước, dư luận thường quy trách nhiệm cho vị Tổng Tư Lệnh là 
			Tổ Thống Nguyễn Văn Thiệu.
			
			Xét cho cùng sự "tiền, hậu bất nhất" của ông ( rút khỏi Cao nguyên, 
			tức Quân Khu 2, Bỏ vùng hỏa tuyến và Đà Nẵng ) chỉ là biện pháp " 
			tháu cáy người bạn lớn" vào giờ phút chót với hy vọng Hoa Kỳ sẽ 
			"nghĩ lại" hoặc thế giới tự do sẽ nhảy vào để xoay chuyển t́nh thế. 
			Buồn thay! Không xin được viện trợ của Hoa Kỳ đă đành, kể cả vay nợ 
			để lấy ngoại tệ mua vũ khí cũng không được một vương quốc dầu hỏa 
			đáp ứng. Áp lực của Mỹ đâu phải chỉ dùng riêng cho Việt Nam Cộng 
			Ḥa?!
			
			Năm 1968, bị đánh bất ngờ tại 26 tỉnh thành mà không hoảng loạn; hai 
			năm liên tiếp bị hao quân, tổn tướng v́ chiến trường Hạ Lào ( Lam 
			Sơn 719 ) và tại Quảng Trị, Kontum, An Lộc ( "Mùa Hè Đỏ Lửa" 1972 ) 
			mà Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không nao núng. Th́ tại sao chỉ trong 
			ṿng 1 tháng các đơn vị Cộng quân đă từ Huế vào tới Sài G̣n? V́ sao 
			tự động tan hàng, bỏ Dân, bỏ Đất trong khi Quân Đội vẫn c̣n những 
			đơn vị thiện chiến đủ để bảo vệ những nơi trọng yếu?!
			
			Câu trả lời, một lần nữa lại nằm trong kế hoạch "bỏ rơi" miền Nam 
			Việt Nam của Mỹ. Kế hoạch này được toan tính từ rất lâu và được thực 
			hiện một cách rất...tiệm tiến ( như đă ghi chú trong các mục kể trên 
			). Măi cho đến ngày 27/1/ 1973 th́ ai nấy đều thở phào khi Hiệp Định 
			Paris chính thức có hiệu lực mặc dù giao tranh vẫn c̣n và với mức độ 
			khá sôi nổi ở nhiều nơi ( Sa Huỳnh ). Người ta hy vọng vào lời cam 
			kết của Mỹ qua bức thư của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu.
			Nhưng "ḥa b́nh" mà cả nước mong muốn hóa ra chỉ là cơ hội để Bắc 
			Việt ổn định lực lượng, yên tâm nhận thêm viện trợ dồn dập từ khối 
			Cộng Sản quốc tế, "hiên ngang" chuyển quân công khai bằng xe 
			molotova và tất cả những phương tiện cơ giới có được theo đường "xa 
			lộ Hồ Chí Minh" từ Trường Sơn xuống tận...Lộc Ninh!
			
			Nói tới áp lực của Mỹ hẳn người ta chưa quên những tuyên bố quyết 
			liệt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những năm sau cùng của 
			cuộc chiến, đặc biệt là qua sự chống đối đề nghị "ngưng bắn da beo" 
			hay lúc khẳng định lập trường của miền Nam tại bàn Hội Nghị Ba Lê 
			qua quốc sách “4 KHÔNG” ( không để lọt vào tay đối phương bất cứ 
			lănh thổ, tiền đồn nào; không liên hiệp; không thương lượng; không 
			có hoạt động của cộng sản hoặc đối lập ở trong nước).
			
			Ngoài ra, cho dù Tổng Thống Thiệu chỉ là lănh đạo của quốc gia nhỏ 
			bé mang tên Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia mà diện tích chỉ bằng 
			1/2 tiểu bang California, nhưng ông là vị nguyên thủ duy nhứt của 
			Đông Nam Á đă khẳng khái đấu khẩu với Tổng Thống Mỹ Richard Nixon 
			suốt mấy tiếng đồng hồ, một ḿnh, không cần người thông ngôn, vào 
			ngày 8 Tháng 6 năm 1969 tại Midway.
			Trích ( According to the White House Daily Diary for that day, Nixon 
			and Thieu had several hours of meetings, including some with 
			advisers. That Thieu had English language skills meant that there 
			was more time for conversations with Nixon on Midway that did not 
			require an interpreter. Whether Kissinger was present at all of 
			these or kept a detailed record of them is unknown.)
			
			Tiếc thay, trong suốt khoảng thời gian sau khi rời Sài G̣n, Tổng 
			Thống Thiệu đă không hề hé môi về bất cứ bí mật nào mà ông biết được 
			về những ǵ phía Hoa Kỳ đă làm nhằm bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, cũng 
			như những ǵ ông đă "tận nhân lực" để cứu văn t́nh thế cho phần đất 
			ở phía Nam vĩ tuyến 17. Trong hoàn cảnh như đă xảy ra cho hai Tổng 
			Thống Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, th́ ai có thể làm được ǵ 
			có kết quả tốt hơn hay không?!
			
			Việt Nam Cộng Ḥa bị xóa sổ đă là một sự thật trong lịch sử. Nguyên 
			nhân xa, gần đều đă được mổ, xẻ. Mọi chi tiết đều như được soi dưới 
			kính hiển vi để đào bới dữ kiện rồi t́m câu kết luận. Nhưng phải hỏi 
			lại là v́ sao trong các nước bị nhuộm đỏ và chia đôi trên thế giới, 
			chỉ có Việt Nam Cộng Ḥa là bị phe địch thôn tính? Cho tới ngày nay, 
			câu trả lời vẫn c̣n tùy thuộc vào những ai có cảm t́nh, hay thuộc 
			phe bên này, hoặc phe bên kia Vĩ Tuyến 17.
			
			Những "sử gia", cùng những người từng theo dơi sát nút tất cả các 
			diễn biến liên quan tới Chiến Tranh Đông Dương cũng không có kết 
			luận thống nhứt. Đa số chỉ đề cập tới sự "mệt mỏi" của Hoa Kỳ. Một 
			số khác nhấn mạnh tới cảnh "bế tắc" của việc tiến hành cuộc chiến, 
			vốn chỉ có mục đích "Đánh cho kẻ địch suy yếu. Không cần phải chiến 
			thắng". Quả là một, bản chất "quái đản" nhứt mà trong tất cả các 
			kinh điển nói về chiến tranh chưa hề đề cập tới!
			
			Số c̣n lại- thực tế hơn- cho rằng Mỹ không phải bỏ rơi Việt Nam mà 
			chỉ "xoay chiều đi theo hướng khác", tức là theo hướng "làm ăn" thay 
			v́ chọn cách "đánh đấm". Những loại nhận định này xuất hiện nhan 
			nhản qua sách vở, báo chí và trên Internet. Đó là chưa kể những lời 
			lẽ khá ngây thơ hoặc "ấu trĩ" của báo chí Mỹ và thế giới, khi họ cho 
			rằng bộ đội cộng sản chiến đấu dũng cảm hơn Quân Lực Việt Nam Cộng 
			Ḥa bởi v́ ( theo họ ) binh lính phía Sài G̣n không có ư chí và lập 
			trường kiên định và thường bỏ chạy trước địch quân.
			
			Cũng không thể trách được thứ luận điệu đầy ác cảm dành cho Quân Đội 
			miền Nam, khi mà mọi phương tiện truyền thông thế giới đều dành 
			những Đầu Đề tổ bố trên trang nhứt của báo chí, để đăng tải bài vỡ 
			kèm theo h́nh ảnh được chọn lựa kỹ càng, chỉ nhằm mục đích bôi lọ 
			tinh thần và khả năng chiến đấu ( để tự vệ ) của người Lính Quân Lực 
			Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt 20 năm chiến tranh.
			
			Để Kết Luận:
			Truyền thông thế giới đă như vậy. Dư luận trong cộng đồng dân Việt, 
			đặc biệt là giới lưu vong kiêm tị nạn Cộng Sản th́ sao? Tất nhiên là 
			không cần đề cập tới luận điệu kiêu căng sặc mùi tuyên truyền của 
			phe "chiến thắng", bởi ai cũng biết bọn họ muốn ghi ǵ, nói chi mà 
			chả được!
			
			Nhưng khi đọc và nghe những ǵ một số Quân, Cán, Chính từng phục vụ 
			trong chánh thể Việt Nam Cộng Ḥa nhận xét về sự "bại trận" của miền 
			Nam tự do, cũng đủ thấy thấm thía và... cay đắng dường nào! Bởi lẫn 
			trong những lời ta thán, bi ai, tưởng tiếc, ngậm ngùi, người ta cũng 
			đọc thấy nhiều lời lẽ hết sức...tiêu cực khi đa số cho rằng:
			1- Dân Tộc Việt Nam bị nguyền rủa bởi dân Hời nên Việt Nam mới bị 
			nhuộm đỏ.
			2- Cấp chỉ huy bất tài, hèn, kém, tham nhũng.
			3- Lănh Đạo của chánh phủ Sài G̣n không cương quyết đấu tranh tới 
			cùng.
			
			Nếu như bọn nhà báo bất lương của Mỹ, hay của các nước khác trên thế 
			giới không hiểu ra rằng bộ đội miền Bắc vốn hoặc bị nhồi sọ đến mức 
			hăm hở vô Nam, hoặc bị lùa đi vào chỗ chết ngay lúc c̣n ở dưới mái 
			học đường ( Họ phải bỏ học để "đi B" chỉ v́ Hà Nội bất chấp thương 
			vong, quyết tâm chiếm đoạt cả miền Nam để dâng hiến cho Cộng Sản 
			quốc tế, nhằm phục vụ cho chân lư dỏm mang tên Chủ Nghĩa Đại Đồng ), 
			th́ ai đă từng sống trong 2 nền Cộng Ḥa của miền Nam ( trong số này 
			có cả bọn kư giả thân cộng, đám "ḥa hợp ḥa giải") đều không phải 
			đui, chột, hay ngu đần để không hiểu được là thanh niên miền Bắc 
			không có đường chọn lựa!
			
			Họ phải vô Nam để gia đ́nh không bị nhà nước "kiếm chuyện". Ngoài 
			ra, đi bộ đội mới có cái mặc, cái ăn, trong khí đó th́ ngoài Bắc đói 
			meo bởi “Tất cả v́ tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 
			". Họ phải đi! Mà đă đi th́ không thể nào trở lui. Không thể lui v́ 
			Trường Sơn khắc nghiệt, v́ phải bất kể ngày đêm, hứng chịu lửa, bom 
			thả ngút trời bởi "pháo đài bay B-52". Kẻ chết may mắn th́ được vùi 
			tạm, lấp nông. C̣n những ai bị thương đều bị bỏ nằm lại dọc đường 
			cho may, rủi số phận.
			Những kẻ c̣n may mắn lành lặn sống, th́ chỉ biết điên cuồng ôm súng 
			chạy về phía trước. May th́ chiếm được vị trí. Rủi th́ trở thành 
			liệt sĩ "Sinh Bắc, Tử Nam" rồi trở thành phân bón cho "núi rừng thêm 
			xanh lá". Đám chỉ huy ( thường là đảng viên đảng Cộng Sản VN ) vốn 
			bất nhân nên không hơi sức đâu- mà cũng không có th́ giờ- lập danh 
			sách báo cáo, bởi chính bọn họ cũng phải vừa "lên lớp" hù dọa, hăm 
			he, rồi lùa đám bộ đội c̣n lành lặn đi tiếp. Chết, sống tính sau!
			
			Cho nên chánh nghĩa nếu không ở về phía người bị xâm lăng và chỉ 
			biết tự vệ th́ không lẽ lại thuộc về đám người vượt hàng ngàn cây 
			số, thậm chí c̣n mượn đường của nước láng giềng để ém quân, rồi len 
			lỏi lấn chiếm xuống phần đất tự do?
			Chánh nghĩa ở đâu khi Cộng Sản nhồi sọ dân chúng bên kia vĩ tuyến 17 
			bằng đủ loại tuyên truyền và mánh khóe cũng như chôn giấu vũ khí lẫn 
			cán bộ ngay sau Hiệp Định Genève vừa được kư kết ( 20/7/1954 ) để 
			sau đó mở cuộc chiến tranh du kích trong Nam chỉ sau vài năm được 
			sống trong thanh b́nh?
			Chánh nghĩa ở đâu khi miền Nam lo kiến thiết đất nước, c̣n phương 
			bắc tàn sát nông dân không gớm tay cùng hàng loạt "cải cách" đẫm máu 
			chỉ nhằm mục đích thực thi chủ nghĩa chuyên chính vô sản?
			Chánh nghĩa ở đâu khi gần 1 triệu người di cư vào Nam, trong khi đó- 
			nếu như không kể đám miền Nam tập kết- số người t́m ra đất bắc để 
			"lánh nạn" đếm được bao nhiêu tên?
			Chánh nghĩa ở đâu khi Hà Nội đổ thừa cho miền Nam vi phạm hiệp định 
			1954, nên phải đưa quân xuôi nam để "giải phóng" khỏi sự "kềm kẹp" 
			của ngoại bang trong khi thực chất phỉ quyền tại phương Bắc, mới là 
			công cụ đích thực của bè lũ " Tam Vô" Cộng Sản!?
			Chánh nghĩa ở đâu khi, ngay trong lúc chiến tranh, người dân- kể cả 
			dân trong những vùng "xôi đậu"- đều di tản về hướng có Quân Lực Việt 
			Nam Cộng Ḥa mỗi khi khói lửa tràn đến thôn làng của họ, thay v́ ở 
			lại hoặc chạy về phía của đám bộ đội?!
			Chánh nghĩa ở đâu, khi giặc Cộng tàn sát lương dân một cách dă man 
			để thỏa măn hận thù, hoặc thực thi "bạo lực cách mạng", ngơ hầu làm 
			khiếp đảm dân lành để dễ bề cai trị?! Điển h́nh hơn hết là 6 lần cải 
			cách ruộng đất ngoài Bắc từ 1953 đến 1957 và những cuộc tàn sát đồng 
			bào vô tội ở làng Đắc Sơn, Phước Long năm 1967, cũng như tại cố đô 
			Huế, dịp Tết Mậu Thân 1968 ) cùng những cuộc đặt bom ( tại Nhà Hàng 
			Mỹ Cảnh Tháng 6/1965 ) hoặc pháo kích vô tội vạ ( điển h́nh nhứt là 
			tại trường Tiểu Học Cai Lậy vào ngày 9/3/1974 giết chết 23 học sinh 
			và 43 bị thương )?!
			
			Sau cùng, chánh nghĩa ở đâu khi cả hai nền Cộng Ḥa miền Nam Việt 
			Nam đều có chánh phủ do dân bầu lên, có hiến pháp làm nền tảng thực 
			thi dân chủ, có sự giám sát thường xuyên của tai mắt ( i.e báo chí, 
			quan sát viên...) thế giới. C̣n Hà Nội từ 1945 cho tới ngày hoàn tất 
			cuộc thôn tính miền Nam ( theo lệnh quan thầy ), chỉ tuân hành theo 
			lệnh lạc và dưới sự cai trị của một đảng duy nhứt và độc tài. Điều 
			trớ trêu và khôi hài hơn hết, là không lúc nào ngưng ca ngợi một gă 
			"tội đồ dân tộc", ngay cả sau khi ông ta đă qua đời và trở thành cái 
			xác ướp ở Ba Đ́nh, năm 1969.
			
			Lănh đạo tối cao và "thần thánh" của Cộng Sản Bắc Việt, hóa ra là 
			một nhân vật có lư lịch bất minh với trên 100 cái tên ( lẫn bút hiệu 
			) khác nhau. Chưa kể từ lâu, họ Hồ đă bị nghi ngờ là điệp viên Trung 
			Cộng ( gốc thiếu tá trong đệ Bát Lộ Quân của Bắc Kinh ) trá h́nh, 
			đội lốt con dân Nghệ Tĩnh để về Việt Nam gầy dựng sự nghiệp lâu dài 
			cho việc biến Việt Nam thành một "chư hầu tân thời". Thậm chí người 
			được Bắc Việt tôn thành "cha già dân tộc", c̣n được đưa vào danh 
			sách những người cộng tác với "Hội Kín" ( Illuminati ) vốn được cho 
			là một nhóm người vừa cuồng tín, vừa có tham vọng làm bá chủ hoàn 
			cầu và trị v́ thế giới theo kiểu độc tài vô tổ quốc lẫn tôn giáo ( 
			thờ Satan ).
			
			Lănh đạo của Bắc Việt là như vậy. C̣n lănh đạo của Việt Nam Cộng Ḥa 
			th́ sao? Cả hai vị Tổng Thống dân cử của miền Nam đều là người theo 
			đạo Công Giáo. Cho dù họ được Hoa Kỳ ủng hộ, thậm chí có thể gọi là 
			được "chọn" nhưng điều đó không có nghĩa họ là "bù nh́n" như luận 
			điệu của bọn Cộng sản thường xuyên tạc. Trong thời điểm Chiến Tranh 
			Việt Nam, lănh đạo miền Nam phải là người Công Giáo. Lư do rất dễ 
			hiểu. Họ không dễ bị Cộng Sản khuynh loát bởi dù sao, Công Giáo 
			không thể nào ḥa đồng với Cộng Sản.
			
			Tiếc thay, họ bị Hoa Kỳ "trói tay"! Cả cụ Diệm lẫn Tổng Thống Thiệu 
			đều bị hạn chế về nhiều mặt. Từ đối ngoại lẫn đối nội đều bị phía Mỹ 
			ảnh hưởng. Ngay cả việc thực hiện những cuộc cải tổ hành chánh hay 
			quân sự cũng đều bị Hoa Thịnh Đốn cản trở, thậm chí đe dọa tánh 
			mạng. Tấm gương đẫm máu của cụ Diệm đă khiến ông Thiệu chùng bước để 
			rồi phải nhúng tay kư vào bản hiệp định Paris ( và cũng là "bản án 
			tử h́nh" dành cho Việt Nam Cộng Ḥa ).
			
			Tổng Thống Thiệu bị những người, v́ quá tưởng tiếc cụ Diệm, đă lên 
			án là có nhúng tay vào máu của anh em họ Ngô, nhưng những người đó 
			đă quên ( hoặc không muốn nhớ ) là vào tháng 11/1963, ông Thiệu chỉ 
			mới là Đại Tá, c̣n những người lật đổ Đệ I Cộng Ḥa đều là cấp trên 
			ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trái lệnh "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng" là bị 
			thủ tiêu rất dễ dàng.
			
			Xui xẻo thay cho Việt Nam! Một đất nước hết bị đô hộ suốt cả ngàn 
			năm, đến loạn lạc v́ chống giặc phương Bắc và nội chiến triền miên 
			cũng vào cỡ ngần ấy thời gian, để rồi lại bị ngoại xâm gần một thế 
			kỷ. Bước vào thời đại nguyên tử, th́ tuy sự chuyển đổi từ thể chế 
			Quân Chủ qua Dân Chủ- Tự Do có phần vội vă; nhưng ít ra, người dân 
			trong miền Nam cũng được hưởng vài chục năm thật sự văn minh, mặc dù 
			sự thịnh vượng chỉ ở mức giới hạn, bởi phải vừa chiến đấu chống xâm 
			lăng, vừa lo kiến thiết về mọi mặt.
			
			Xui xẻo cũng phải, bởi v́ khi không tại Việt Nam xuất hiện một "hung 
			thần" đem chủ nghĩa ngoại lai về áp đặt trên quê hương và hết ḷng 
			cúc cung tận tụy cho quan thầy Bắc Kinh lẫn Cộng Sản thế giới! Càng 
			xui xẻo không kém khi mà muốn sinh tồn, lănh đạo miền Nam phải dựa 
			vào hậu thuẫn hầu như về mọi mặt của "đồng minh kiêm bàn tay lông 
			lá" để lèo lái con thuyền quốc gia, vượt cơn Hồng Thủy đến từ phương 
			Bắc.
			
			Thậm chí đến việc quyết định vận mạng của Việt Nam nói chung, miền 
			Nam Việt Nam nói riêng, há chẳng phải là do cái gọi là "bàn tay lông 
			lá" đó sắp đặt hay sao?! Bằng chứng hiển nhiên nhứt, là việc họ nuôi 
			nấng một kẻ vơ biền để khiến ông ta phản bạn, giết thầy cuối năm 
			1963, để sau đó vài năm kẻ làm phản đó phải lưu vong một thời gian 
			dài, trước khi Mỹ sắp đặt rồi cho về nước năm 1970 để nằm chờ thời, 
			đợi sắm vai tuồng thu vén tàn cuộc. Ông ta bị chửi rủa là hèn hạ v́ 
			chỉ biết đầu hàng mà không chịu chiến đấu!
			
			Hỡi ơi! Ngày tàn của Việt Nam Cộng Ḥa thê thảm tới mức không ngờ 
			khi mà cái thuyết Domino ( dưới thời của Tổng thống Dwight D. 
			Eisenhower, năm 1954 ) lại ứng dụng một cách triệt để vào 20 năm sau 
			cho Việt Nam ( chứ không phải cho Đông Nam Á như đă tiên liệu sai 
			lầm lúc đó ), khi chỉ trong ṿng đúng 4 tháng ( tính từ khi mất 
			Phước Long ngày 1/1/1975 ) Cộng Sản đă vào tới Sài G̣n! Nhanh quá mà 
			cũng bất ngờ quá!
			
			Mất nước bởi v́ Lănh Đạo hèn, c̣n Quân Đội th́ yếu kém chăng? Không 
			phải! Hoàn toàn không phải vậy! Chỉ tại Sài G̣n bị bỏ rơi và Hoa Kỳ 
			không ngần ngại công bố trên các nguồn thông tấn của họ. Ông Thiệu 
			biết từ lâu và đă làm hết sức ḿnh để cải thiện t́nh h́nh ( kể cả 
			xuống nước kư tên vào bản Hiệp Định "Trời ơi, Đất hỡi" sau thời gian 
			phản đối suốt gần 6 năm trời ) trong đó có việc cắt đất, lui quân.
			Tin tức dù cho có bưng bít cỡ nào mọi người cũng biết chuyện Mỹ bỏ 
			rơi. Cứ thế mà tin xấu đó được công khai hóa trên các làn sóng thông 
			tin thế giới, trên mặt báo chí Sài G̣n cũng như tại Hoa Kỳ. Đối lập 
			và đám thân cộng tha hồ "quậy" cho tan nát nội t́nh, chưa kể mấy tay 
			gián điệp do Mỹ gài vào "Thành phần thứ 3" cũng công khai góp mặt 
			bên cạnh Dương Văn Minh để rước đám dép râu thoải mái vào Dinh Độc 
			Lập.
			
			Nhắc tới ngày sau cùng của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa, người ta không quyên 
			h́nh ảnh của cụ Trần Văn Hương, người mà trong lịch sử cận đại đă 
			trở thành chính khách duy nhứt của Việt Nam, đảm nhiệm cả 3 chức vụ 
			đầu năo của một thể chế dân chủ: Thủ Tướng ( hai lần, 1963 và 1965 ) 
			Phó Tổng Thống ( 1971 ) rồi Tổng Thống ( 1975, dù chỉ được có 7 
			ngày! )
			
			"Ông Già Gân", người chính khách có tinh thần quốc gia đă để lại cho 
			đời sau một tấm gương sáng khi:
			- Khẳng khái ủng hộ rồi đứng chung liên danh với Trung Tướng Nguyễn 
			Văn Thiệu năm 1971, qua câu tuyên bố:" “… Lúc đó chỉ có ông Thiệu là 
			có khả năng chống cộng thật sự, lại nữa vụ Mậu Thân cho thấy Việt 
			cộng đă mạnh lắm rồi, mà Hoà Kỳ th́ lại có ư chủ ḥa, ông Johnson 
			th́ ép ḿnh phải đi hoà hội Paris… nên cần phải ủng hộ ông Thiệu.”
			- Tuyên bố "Tôi xin hứa với anh em trong quân đội là ngày nào anh em 
			c̣n chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em và ngày nào, chẳng 
			may, mà đất nước không c̣n nữa th́ cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm 
			bên cạnh đống xương của tất cả anh em binh sĩ."
			- Đặt chuyện quốc gia đại sự lên trên hết chuyện nên đă cương quyết 
			từ chối không liên lạc với người con ( tập kết và sinh sống ) ở miền 
			Bắc. Đồng thời thà sống trong khó nghèo, bệnh tật, cũng không cần 
			những đặc ăn của đám "chủ mới".
			- Từ chối nhận lại " quyền công dân" từ tay phỉ quyền Hà Nội và 
			không ngần ngại nói thẳng "Tôi xin phép từ chối, không nhận cái 
			quyền công dân này v́ dù ǵ tôi cũng là người lănh đạo miền Nam, 
			trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ v́ thừa lịnh của chúng tôi 
			mà giờ đây vẫn c̣n bị giam cầm trong các trại cải tạo!... Tôi sẽ là 
			người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân 
			viên của chúng tôi đă được thả và nhận lại quyền công dân."
			- Đă có ước nguyện được chôn trong nghĩa trang Quân đội Biên Ḥa để 
			"... được nằm chung với anh em binh sĩ! " nhưng v́ qua đời sau 1975 
			nên không được chính quyền cộng sản chấp nhận ( Tất nhiên thôi! ).
			
			C̣n " Tổng Thống dỏm" Dương Văn Minh?
			Ông ta đă chứng tỏ sự "ăn năn" khi chấp nhận làm quân cờ thu dọn tàn 
			cuộc. Bởi thế, Big Minh đă ngậm tăm suốt thời gian lưu vong, chỉ để 
			"màu mè" về nước làm bộ tranh cử ghế tổng thống cho có lệ vào năm 
			1970 ( rốt cuộc cũng bị bác đơn như ai nấy đều đă biết). Sau cùng 
			th́ Dương Văn Minh cũng làm xong bổn phận. Đó là đầu hàng Cộng Sản 
			sau đúng 48 tiếng ngồi ghế tổng thống của miền Nam.
			
			Việc đầu hàng này được đa số cho là hợp lư và có tánh cách nhân đạo, 
			mặc dù không ít người cho Big Minh là hèn nhát không dám chiến đấu 
			chống giặc Cộng tới cùng. Cũng nên hiểu cho ông ta, v́ nếu không 
			phải là Dương Văn Minh, th́ ai mới là người được Hà Nội tin tưởng, 
			để cùng đóng "màn kịch đầu hàng" vốn đă được thế lực đằng sau bức 
			màn nhung ở bên kia nửa ṿng trái đất khổ tâm dàn dựng ( bằng xương 
			máu của chính con em họ và của hàng triệu sinh linh Việt Nam ) từ cả 
			chục năm trước?!
			
			Phải công nhận Việt Nam "xui tận mạng" khi số phận không nằm trong 
			tay chính ḿnh, mà từ ngàn xưa cho đến tận ngày nay đă là như vậy! 
			Vâng! Đến tận ngày nay, số phận của Việt Nam "thống nhứt" vẫn nằm ở 
			đâu đó! Nếu không phải là Bắc Kinh, th́ chắc cũng ở một nơi ngoài 
			ranh giới mang h́nh chữ S! Xưa đă vậy mà nay cũng không có ǵ khác 
			biệt. Có khác chăng là ở những người đă và đang lănh đạo đất nước. 
			Họ thật sự lo cho Dân, v́ Dân, hay chỉ " c̣n Đảng th́ c̣n ḿnh"? Câu 
			trả lời nằm trong câu hỏi dưới đây.
			
			Có đám chóp bu nào ở Hà Nội "cả gan" chống lại ư định của "thiên 
			triều bắc phương" hay chưa?
			- Chưa hề có! Thậm chí chưa ai dám phản đối bất cứ điều ǵ Bắc Kinh 
			"phán" cho làm. Chưa kể Hà Nội ( chỉ nói tới thời chiến tranh thôi ) 
			công khai tuyên bố giao đất của Cha Ông cho Tàu Cộng ( bằng công hàm 
			năm 1958 và lời tuyên bố nhờ "Trung Cộng giữ giùm", năm 1974 mặc dù 
			Hoàng Sa không thuộc về ḿnh ) Sau đó là đă nhờ trên 300,000 tên 
			lính Tàu trực tiếp bảo vệ miền Bắc ( 1965 - 1967 ) để vét toàn lực 
			vào việc xâm lăng miền Nam những năm sau đó.
			
			C̣n tại miền Nam? Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thà chết không chịu nghe 
			lời Mỹ, khi Hoa Kỳ chủ trương đem quân vào miền Nam, cũng thà chết 
			chứ không chịu để cho Mỹ đưa đi lánh nạn khi xả ra đảo chánh. Tổng 
			Thống Thiệu th́ sao? Vị lănh đạo của nền Đệ II Cộng Ḥa đă không 
			ngần ngại "đấu khẩu tay đôi" với Richard Nixon tại Midway năm 1969 
			và "cầm chân" Kissinger trong Dinh Độc Lập trong hai ngày 21 và 
			22/10/1972, mỗi ngày suốt mấy tiếng đồng hồ để phản đối rồi mới đi 
			đến "thỏa thuận có điều kiện" trước khi đồng ư kư vào bản Hiệp Định 
			Paris. Một trong những "điều kiện" đó là bức thư của Tổng Thống 
			Nixon hứa giúp Việt Nam Cộng Ḥa như đă nói trên.
			
			Nhân đây cũng nên so sánh sự "yếu, hèn" của hàng tướng lănh hay sĩ 
			quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa với đám tướng lănh của 
			Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt. Câu hỏi, đă có tay nào ở miền bắc, kể cả 
			những kẻ được tâng bốc là "huyền thoại" cả gan "đụng" tới quan thầy 
			Trung Cộng chưa?- Không đời nào họ dám "vuốt râu cọp" ! Nhưng miền 
			Nam th́ đă có Tướng Lam Sơn Phan Đ́nh Thứ- khi c̣n là Đại tá- từng 
			đấm vào mặt hai sĩ quan Mỹ, trong đó có một viên cố vấn quân sự, chỉ 
			v́ hai người này "cả gan" khi dễ người Lính Việt Nam Cộng Ḥa!
			
			Như đă nói, nước Việt Nam "xui tận mạng" v́ đă có những kẻ bán ḿnh 
			cho chủ nghĩa không tưởng rồi bán nước không cần giấu mặt cho thứ 
			chủ nghĩa bất nhân đó. Đă vậy miền Nam cũng gặp nhiều tay háo danh, 
			tham tiền, phản chủ cộng với loại vừa nhẹ dạ lại thêm yếu ḷng ( khi 
			họ cả tin vào chủ thuyết vô thần rồi ngày càng lún sâu và cứ thế mà 
			an phận dưỡng già ). Thêm vào đó là bàn tay "phù thủy" của thế lực 
			ngoại bang đă "chia nhau thế giới" để cùng hưởng lợi. 
			
			Nếu cần th́ chỉ nên "đổ thừa" cho định mệnh, cho số phận ( mà trong 
			đó phải nói tới vị trí địa lư quá "hấp dẫn" của đất nước Việt Nam ) 
			nên mới bị giặc Tàu xâm lăng rồi đồng hóa ( nhưng thất bại năo nề ) 
			và tới thời đại nguyên tử th́ lại bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp đến 
			phải đổ máu suốt hơn 30 năm trường ( chỉ v́ tham vọng của các cường 
			quốc ).
			Không có "ma Hời" nào giăng chướng khí, hay trù ẻo dân Việt đến đổi 
			phải chịu sống dưới ách của bọn "nô tài thời đại". Họ vẫn c̣n sờ sờ 
			ra đó tại Đông Nam Á. Riêng ở Việt Nam vẫn c̣n hơn 150,000 hậu duệ 
			của vua Chế Bồng Nga cư ngụ. Xin đừng lầm giữa Suy Vong với Diệt 
			Chủng ( chẳng c̣n ai sống sót ) kẻo buồn ḷng những vị Vua đă từng 
			Nam Tiến và cả hai nền Cộng Ḥa của miền Nam Việt Nam đă từng tạo 
			điều kiện thích hợp để họ sinh tồn.
			
			Đừng nên trông chờ vào Lịch Sử ( thường mang tính cách của đời sau ) 
			v́ nạn nhân kiêm chứng nhân của tời cuộc vẫn c̣n đây. C̣n Lịch Sử 
			chắc chắn sẽ là những điều trái khoái, hoặc không đúng với sự thật 
			là cái chắc! V́ ngay bây giờ chỉ cần vào Wikipedia tiếng Việt để tra 
			cứu, người ta sẽ đọc được ít nhứt là 90% bài vở do bồi bút cộng sản 
			ghi chép. Vả chăng, Lich Sử không thể trung thực khi mà kẻ cầm viết 
			chắc chắn phải "bẻ bút" để phục vụ cho chủ nhân ( ie đám cầm quyền ) 
			hoặc chỉ dựa vào những nguồn thông tin mạt hạng, không đáng tin cậy 
			để viết bài.
			
			Thiết tưởng ngay bây giờ cũng nên nghĩ lại và tưởng tiếc cho một thể 
			chế đă không c̣n. Mặc dù bị bức tử và cho dù con cháu của cái xác 
			ướp ở Ba Đ́nh luôn rắp tâm xóa bỏ những dấu tích của miền Nam ( từ 
			Nghĩa Trang Quân Đội ở các nơi cho tới những công tŕnh kiến trúc, 
			nghệ thuật, một thời là dấu ấn văn hóa tiêu biểu của Việt Nam Cộng 
			Ḥa ) th́ trong ḷng dân Việt lưu vong vẫn c̣n h́nh ảnh của một quốc 
			gia có chủ quyền, trong đó Sài G̣n, thủ đô văn minh cho đến bây giờ 
			vẫn là chiếc nôi nuôi dưỡng t́nh người và t́nh tự dân tộc cho cả 
			nước Việt Nam.
			
			C̣n Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa?- Không cần nói nhiều. Chỉ cần xem 
			h́nh ảnh cũ, t́m lại những người Lính thuở xưa rồi hỏi đồng bào 
			trong nước, đặt biệt là người dân phía Nam Vĩ Tuyến 17, th́ sẽ có 
			ngay trả lời. Câu trả lời sẽ làm "ấm ḷng chiến sĩ" là cái chắc!
Câu hỏi để thay cho kết luận:
Có bao nhiêu người dân trong Nam ra Bắc lập nghiệp? Hay từ 1976 đă có hàng hàng lớp lớp người dân Hà Nam Ninh, Thanh Hóa..v/v...không ngừng vào Nam sinh sống, làm ăn? Hỏi, tức là đă trả lời!
HUY VĂN ( HUỲNH VĂN CỦA )
			
			Tham Khảo:
			https://alphahistory.com/vietnamwar/us-involvement-in-vietnam
			https://en.wikipedia.org/wiki/Opposition_to_United_States_involvement_in_the_Vietnam_War
			https://timesmachine.nytimes.com/timesmachine/1955/10/15/92846462.html
			https://www.quora.com/What-was-the-legitimacy-of-South-Vietnam
			https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m_Caravelle
			https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a
			https://www.bbc.com/vietnamese/39750353
			https://www.wilsoncenter.org/article/china-contributed-substantially-to-vietnam-war-victory-claims-scholar
			https://www.nytimes.com/2018/03/27/opinion/russians-vietnam-war.html
			https://en.wikipedia.org/wiki/Sino-Soviet_split
			https://www.newsweek.com/changed-world-fifty-years-since-president-richard-nixon-met-mao-1680621
			https://www.rbth.com/arts/history/2016/11/16/when-china-and-russia-were-in-conflict_648205
			https://whowhatwhy.org/politics/government-integrity/jfk-ordered-full-withdrawal-vietnam-solid-evidence/
			https://history.state.gov/milestones/1961-1968/cuban-missile-crisis
			https://www.historynet.com/moshe-dayan-sounds-the-alarm-in-vietnam-3/
			https://www.haaretz.com/israel-news/2017-02-14/ty-article-magazine/photos-when-moshe-dayan-toured-vietnam-called-out-u-s-arrogance/0000017f-ef02-d4cd-af7f-ef7a7ace0000
			https://blog.nli.org.il/en/vietnam/
			https://www.mnopedia.org/event/anti-vietnam-war-movement-1963-1973
			https://www.newsweek.com/changed-world-fifty-years-since-president-richard-nixon-met-mao-1680621
			https://www.wilsoncenter.org/blog-post/anna-chennault-affair-south-vietnamese-side-wars-greatest-conspiracy-theory
			https://www.nytimes.com/1963/09/08/archives/saigon-arrests-800-teenagers-staging-protest-police-surround.html
			https://www.encyclopedia.com/history/encyclopedias-almanacs-transcripts-and-maps/antiwar-movement-vietnam
			https://depts.washington.edu/antiwar/vietnam_intro.shtml
			https://www.britannica.com/topic/liberal-internationalism
			Bóng người hay bụi 
			sương?
			Lần đầu nhập trận
			Ngược ḍng thời gian
			Họa, phúc trong ngày
			50 năm thoáng 
			vội trong ngày
			Ukraine & VNCH
			Saigon xa đă tṛn 
			năm
			Ngày về từ rừng 
			núi Hiệp Đức
			Trường Sơn bỏ 
			lại sau lưng
			Cuộc hành tŕnh
			Chung g̣ng định phận
			Cuối cuộc hành tŕnh 
			2020
			Xuân ở nơi nào?!
			Giấc mơ Xuân
			Ngày ra trại
			Một buỗi chiều xuân
			Nhánh mai vàng
			Đêm xuân
			Cuối cuộc hành tŕnh
			Thân chiến 
			quốc, phận lưu vong
			Mộ Đức - Một ngày 
			vào hạ
			Từ Mỹ Tho đến 
			Garden Grove