Quá Đă !!

(Tặng những anh sui nào gốc mũ xanh c̣n đang sống “cu ky”)

Huỳnh Văn Phú

1. Chị Sui.

Bà Liên vừa bước qua tuổi 50. Với con số năm mươi mùa Thu lá rụng đi qua trong đời của một người đàn bà như thế, không thể nói bà Liên đă quá già hay c̣n quá trẻ. Và nói theo ngôn ngữ của lớp b́nh dân khi nhận xét, đánh giá nhan sắc một phụ nữ th́ rơ ràng bà Liên C̣n Nấu Phở Được. Có thể nhiều người không hiểu nhóm chữ C̣n Nấu Phở Được mang nghĩa ǵ ? Tôi xin trả lời mau rằng C̣n Nấu Phở Được tức là C̣n Ngọt Nước. Tức khắc, chúng ta h́nh dung ra một tô phở (có nước béo) thật ngon, thật hấp dẫn. Bà Liên cũng hấp dẫn như vậy. Trong trường hợp bà Liên, cách so sánh như trên tuy dung tục nhưng không sai một ly ông cụ nào.

Bà Liên cùng chồng và con gái sang Mỹ theo diện H.O năm 1994. Chồng bà, một cựu Trung Úy Biệt Động Quân đă từng đi tù Cộng Sản hơn 5 năm. Đến Mỹ, hai vợ chồng xắn tay áo làm việc quên ăn, quên ngủ nuôi cô con gái ăn học. Cô bé sau khi xong Trung Học, tiếp tục lên Đại Học và tốt nghiệp Dược Sĩ, hiện làm việc cho một Pharmacy trong thành phố. Con gái bà cũng đă lập gia đ́nh với một thanh niên Việtnam cùng nghề. Ba năm trước, chồng bà Liên qua đời v́ bệnh ung thư ruột già. Từ ngày chồng bà theo lời Chúa gọi, bỏ bà đi lên Thiên Đường, cách sống của bà thay đổi hẳn. Do đó, thay v́ ở chung với con gái, bà Liên lại yêu cầu được ở riêng một ḿnh. Con gái bà đành phải thuê cho bà một căn apartment gần đó để bà được tự do. Bà muốn sống một ḿnh (như cách sống của một số phụ nữ Mỹ mà bà biết) để có được cái riêng tư đích thực chứ bà chưa hề nghĩ đến ngày nào đó bà sẽ ngủ chung giường với một người đàn ông nào. Con gái bà là một đứa con có hiếu cho nên nó bảo mẹ nó cứ an hưởng tuổi già, mọi chi tiêu của bà nó chi trả hết. Nó thực hiện cho bà một cái thẻ tín dụng, bà muốn chi tiêu mua sắm ǵ th́ cứ xài. Thời c̣n con gái, bà đă từng là sinh viên Văn Khoa. Bà thích làm thơ hơn là viết văn. Đối với bà, thơ dễ diễn đạt những rung động, xúc cảm hơn. Qua báo chí, bà theo dơi rất sát những hoạt động văn nghệ của các nhà thơ ở hải ngoại. Theo nhận xét của bà, hầu như ở hải ngoại, trong thời gian sau này, không có nhà thơ nào có những ngôn ngữ thơ đặc biệt như các nhà thơ Bùi Giáng hay Nguyễn Đức Sơn (Sao Trên Rừng). Đó là những thi sĩ bà thật sự ngưỡng mộ. Không chỉ ngưỡng mộ về thi tài của họ thôi mà c̣n ngưỡng mộ về cách sống của các vị này nữa. C̣n các nhà thơ nội địa th́ bà thích nhà thơ nữ PTTN nhất. Ngày c̣n ở quê nhà, bà thường hay đọc tờ Văn Nghệ và những bài thơ của nhà thơ nói trên, bà đều thuộc ḷng. Hễ có dịp nói chuyện văn nghệ văn gừng với bạn bè, bà thường lập đi lập lại rằng, diễn tả được cái nữ tính đôn hậu mà dịu dàng của người đàn bà trên trái đất này (nhất là đàn bà Việtnam), có lẽ không ai qua được PTTN với những vần thơ như sau :

Nếu anh đi với người yêu
Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi
C̣n đường ta đă dạo chơi
Anh đừng đi với một người khác em
Hai hàng cây đă lớn lên
Vươn cành lá để êm đềm chạm nhau
Hai ta ai biết v́ đâu
Hai con đường rẽ xa nhau, xa hoài
Nếu cùng người mới dạo chơi
Xin anh tránh nẻo đường vui ban đầu
Hay như chỉ hai câu trong bài thơ có tên là Buồn :
Người tôi yêu, đă đi xa
Người yêu tôi, lại ở nhà, chán không ?

Thỉnh thoảng, bà cũng có gửi đến vài tạp chí văn nghệ những bài thơ bà sáng tác nhưng cho đến giờ, bà chưa thấy tờ báo nào.chạy nhật tŕnh các công tŕnh tim óc của bà. Cứ vài ba năm, bà lại về Việtnam một lần. Có lúc, bà rủ con gái và rể đi cùng. Nửa tháng hay dăm ba tuần sống ở quê nhà, theo bà, đó là h́nh thức t́m sống lại một quá khứ đă mất...
Trên đây là lư lịch trích ngang của bà Liên, tức chị Sui.

2. Anh Sui.

Tuổi của ông Bách hơn bà Liên đúng một con giáp, nghĩa là ông được 6 bó lẻ hai que. Ông bảo rằng người Việtnam ḿnh khi đă qua được cái ngưỡng cửa 6 bó là đă thọ lắm rồi. C̣n hít thở được không khí thêm được năm nào, coi như trời cho bonus vậy. Trước 75, ông Bách là một giáo sư dạy Việt Văn ở một trường Trung Học tại Biên Ḥa. Ông cũng bị động viên vào Thủ Đức nhưng sau đó th́ được biệt phái về Bộ Giáo Dục để tiếp tục cầm phấn đứng trước bảng đen. Ông Bách có một con trai và hai con gái. Sau ngày mất nước, ông được chính quyền Cộng Sản lưu dụng, cho ông tiếp tục dạy được một năm th́ t́m cớ, nói ông có làm việc cho CIA, bắt ông phải đi cải tạo. Ông ăn bo bo, khoai, sắn, bắp và lao động khổ sai hơn ba năm mới được thả về. Trong thời gian ông đi cải tạo, các cán ngố Việt Cộng đến nhà thuyết phục vợ ông nên đi kinh tế mới th́ chồng sẽ được chóng thả về để cùng nhau lao động sản xuất. Chúng nói nhà nước sẽ cấp cho gia đ́nh một căn nhà, coi như một đổi một. Ở kinh tế mới, vợ ông lại có thêm đất đai vườn tược nữa. Thế là vợ ông tin lời Việt Cộng, giao nhà cho chúng, dẫn ba con đi lập nghiệp ở kinh tế mới.

Đến nơi, mới bổ ngửa ra là bị chúng lừa. Căn nhà được cấp ấy chỉ là một cái cḥi lá mới dựng sườn xong, bốn bên chưa có vách ván ǵ hết. Các con c̣n nhỏ, vợ ông th́ chân yếu tay mềm, cầm cái cuốc không nỗi làm sao mà cuốc đất trồng khoai trồng bắp đây ? Đành phải sống vất vưỡng qua ngày, trong 5 tháng ăn hết số lương thực mà Việt Cộng đă cấp rồi vợ ông bỏ vùng kinh tế mới, về lại Biên Ḥa buôn đầu chợ, bán cuối chợ, nuôi ba con và sống tá túc với mẹ chồng. Ba năm sau, vợ ông bạo bệnh qua đời vừa kịp lúc ông Bách được thả về, đau đớn nh́n mặt người bạn đời lần cuối.

Ông Bách vốn có óc khôi hài. Ông nh́n những sinh hoạt xă hội với con mắt của một người vẽ hí họa và xử sự mọi chuyện trong tư thế của một người đội mũ lệch. Bất cứ vấn đề nào ông cũng đều thấy có cái khôi hài trong đó. Và theo ông, cách quản lư xă hội của những người Cộng Sản rất kỳ cục, quái đản, bịp bợm, tàn ác và khôi hài nhất kể từ khi loài người có mặt trên trái đất này. Mọi người ai cũng phải biết sợ và đặc biệt là phải dối trá. Ông nhiều lần tự hỏi tại sao một chế độ hủy diệt toàn bộ nhân cách con người như thế lại có thể đứng vững trong hàng bao nhiêu năm trời ? Hỏi để mà hỏi chứ ông chịu thua, không thể t́m ra được câu trả lời thỏa đáng. Vả lại, ông có phải là nhà tư tưởng, là triết gia triết dụng ǵ đâu để mà t́m hiểu những vấn đề to lớn ấy. Trước mắt, ông phải lo cuộc sống hàng ngày và dạy dỗ các con ông phải sống làm sao cho ra những con người tử tế và nhất là phải biết căm thù Cộng Sản. Nhưng cuộc sống lúc ông được trở về từ trại cải tạo là thời bao cấp và ngăn sông cấm chợ nên ông phải quần quật đầu tắt mặt tối mới cung ứng đủ gạo cho bốn cái bao tử của mấy cha con ông. Ông làm đủ chuyện, đạp xích lô, đẩy xe ba gác chở hàng ra chợ cho các vựa bán rau cải, phụ thợ nề trong các tổ xây dựng. Trong những ngành nghề ông đă từng trải qua sau ngày mất dạy, có một nghề mà cho đến bây giờ nhớ lại ông vẫn thấy tức cười và thường kể cho bạn bè nghe với một chút hănh diện : Làm công nhân thông mạch cho một tổ hợp đào giếng.

Ông nói với đám bạn của ông, nửa đùa nửa thật :
- Các cụ đừng tưởng hễ cứ đào sâu xuống dưới đất là có nước đâu. Cái khó là nh́n thế đất để biết mạch nước nằm ở chỗ nào, theo đó mà thông mạch để đánh dấu rồi cho khoan lỗ. Nhưng mà tôi nói cho các cụ biết, từ ngày mẹ các cháu quy tiên, tôi chỉ biết thông mạch đào giếng thôi chứ c̣n thông các mạch khác th́, nói thật các cụ đừng cười tôi nhé, “Long time no see” các cụ ạ.

Cũng nhờ đi tù cải tạo trên ba năm nên ông và các con được sang Mỹ theo chương tŕnh H.O. Thoát được Cộng Sản để sang Mỹ tỵ nạn, ông cho là ông đă đạt được một ước mơ vĩ đại nhất trong đời ông. Ông nói với các con ông, xứ sở này là xứ sở của cơ hội, của bằng cấp. Bằng cấp càng cao th́ công việc càng nhàn hạ và tiền cũng càng nhiều. V́ thế ông khuyên các con ông phải cố gắng học hành. Thằng con trai lớn của ông khi sang Mỹ, nó đă quá 18 tuổi nên phải theo học ở một trường cộng đồng, sau vài năm chuyển tiếp sang một trường College học Dược. Tốt nghiệp Dược sĩ rồi kết hôn với cô bạn gái cùng lớp (con gái của bà Liên). Hai cô con gái của ông cũng tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định.

Nếu ở quê nhà ông Bách đă từng là chuyên viên thông mạch đào giếng th́ khi sang Mỹ ông làm việc trong một bệnh viện với nhiệm vụ của một chuyên viên đo tim mạch (ông có theo học một khóa EKG hết 6 tháng tại một trường chuyên dạy nghề). Khi các con ông đă có công ăn việc làm vững chắc, đời sống rủng rà rủng rĩnh hơn, đến tuổi 62, ông quyết định về hưu non. Ông kể lại cho bạn bè nghe chuyện về hưu của ông rất tiếu lâm như sau :

Các cụ biết không, tui lên gặp thằng supervisor của tui, tui nói tui đă già yếu, mắt mờ tai lăng, không thể làm việc có năng xuất được nữa, xin về hưu non. Nó lắc đầu, bảo tôi c̣n khỏe mạnh, nên tiếp tục làm việc, không chịu kư giấy cho tôi nghỉ hưu. Năn nỉ măi, nó mới bảo tôi cỡi quần cho nó xem. Tôi đành phải tuột quần... Nó vừa thoáng thấy...là nói ngay : Ừ, như thế là về hưu được. Thế là tôi nghỉ hưu, tà tà rong chơi. Ba đứa con tôi thay phiên nhau chi trả tiền mua bảo hiểm sức khỏe cho tôi. Khỏe vô cùng !
Vừa rồi là lư lịch cô đọng của ông Bách, tức anh Sui.

3. Ngôn Ngữ Của Thơ

Bà Liên vừa trở lại Mỹ sau chuyến về thăm quê nhà. Bà bảo thằng rể của bà mang biếu cho anh Sui hai gói trà Thái Nguyên và một ít đặc sản quê hương và dặn nói với bố khi nào thuận tiện th́ mời bố sang chơi.

Một buổi chiều ngày nọ, ông Bách gọi phone cho bà Liên hỏi có thể sang thăm được không. Bà Liên nói rất welcome, tiện thể mời ông dùng cơm chiều và hứa sẽ kể chuyện ở quê nhà giờ đă đổi mới ra sao. Ông Bách không quen lái xe về đêm nên ông gọi taxi đến chung cư bà Liên đang cư ngụ. Khi ông đến nơi th́ thành phố đă lên đèn. Mây kéo về đen nghịt cả bầu trời, gió thổi mạnh như báo hiệu có giông băo.

Cũng như mỗi lần tiếp xúc kể từ khi là sui gia với nhau, bà Liên luôn luôn tiếp ông Bách với thái độ niềm nỡ và tự nhiên. Trong khi dùng cơm, bà Liên kể cho ông Bách nghe về chuyến đi du lịch của bà ra vịnh Hạ Long và một số thắng cảnh nổi tiếng ở ngoài Bắc. Bên ngoài, trời bắt đầu mưa lớn và gió hú trên những hàng cây bên đường.

Thấy t́nh h́nh thời tiết lúc bấy giờ không cho phép ông Bách có thể rời chỗ ông đang ngồi, bà Liên vừa cười vừa nói với ông Bách :
- Anh Bách à, chắc anh c̣n nhớ câu thơ “vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” chứ ?
Ông Bách cười nửa miệng :
- Chị cũng nhớ thơ Đường quá hỉ ?
- Ờ, mấy câu thơ loại đó học sinh trung học ai mà chẳng biết.
Rồi bà nh́n đồng hồ, nói tiếp :
- T́nh trạng mưa băo hiện tại, nếu anh không về nhà được th́ anh có thể tạm qua đêm ở pḥng khách này, miễn là anh không chê sự thiếu tiện nghi.
- Chị yên tâm, tôi có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh mà.
Bà Liên nói xong bước lên cầu thang về căn pḥng của bà. C̣n ông Bách th́ ngồi xem TV. Một lúc sau, ông Bách không xem TV nữa mà lấy một cuốn sách trên kệ xuống đọc.
Đến khoảng gần 11 giờ đêm, bà Liên từ trên lầu bước xuống pḥng khách, ngồi đối diện với ông Bách. Bà Liên nói :
- Anh Bách à, chẳng nói dấu ǵ anh, tôi rất thích thơ văn. Trong thời gian qua, tôi cũng tập tễnh làm thơ. Anh cũng biết đấy, thơ có cái ngôn ngữ riêng của nó. V́ thế, có những từ ngữ mà tôi không biết cách dùng sao cho đúng. Biết anh đă từng là giáo sư dạy Việt văn nên muốn nhờ anh cố vấn cho vài điều.
Ông Bách gật gù :
- Xin chị cứ tự nhiên hỏi, tôi sẽ cố gắng trong khả năng.
Bà Liên bắt đầu:
- Tôi đang làm một bài thơ kể lại chuyến trở về Mỹ của tôi vừa qua. Có một vài từ ngữ tôi cần nhờ anh giúp để sử dụng cho chính xác. Lúc từ Việtnam qua Mỹ, phi cơ ghé Đức rồi mới bay sang New York. Nếu tôi dùng chữ ghé Đức th́ câu thơ quê mùa quá, vậy nên dùng chữ nào cho đúng ?
Ông Bách nói liền :
- Chị nên dùng chữ phi cơ quá cảnh ở Đức thay v́ nói ghé Đức, có lẽ hay hơn.
Bà Liên lại hỏi tiếp :
- Khi đến New York, tôi đi nhờ xe của con gái một người bạn đi cùng chuyến bay để về nhà.
Trong thơ mà dùng nhóm chữ đi nhờ xe, tôi thấy không ổn tí nào, vậy theo anh th́ ta nên dùng nhóm chữ nào cho thích hợp ?
Ông Bách trả lời không suy nghĩ :
- Thay v́ chữ đi nhờ xe, chị nên viết quá giang là đúng hơn cả.
Bà Liên buột miệng khen ông Bách :
- Anh đúng là một giáo sư dạy Việt Văn, rất nhuần nhuyễn trong việc sử dụng tiếng Việt.
- Chị quá khen !
- À, mà này anh Bách, giả sử tôi từ trên lầu xuống đây nói chuyện với anh như thế này, tôi có thể dùng chữ quá bộ được không ?
Nghe bà Liên nói thế, ông Bách nh́n thẳng vào mắt bà Liên, hóm hỉnh trả lời :
- Theo tôi, không thể dùng chữ quá bộ được, chữ dùng đúng nghĩa nhất trong trường hợp này là Quá...Đă !

Huỳnh Văn Phú

 

 


MỤC LỤC

Lá thư Sóng Thần

Hội TQLC Sacramento

Sinh hoạt hội Des Moines

Sinh hoạt liên hội Úc Châu

Des Moines nắng ấm t́nh nồng

Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào

60 Năm qua dạ vẫn tối

Âm Thoại Viên theo chân các Đại Bàng

Anh hùng tử, khí hùng bất tử

Hành tŕnh vượt biên

Bán sách, đi Tây

Biển vẫn đợi chờ

Buồn vui Đại Hội 2012

Vui buồn đời lính

Cao Xuân Huy - Mỉm cười nơi chín suối

CĐ B/TQLC - Cuộc hành quân đổ bộ Deck House V/Sóng Thần 1/67

Chuyện cô gái đồi sim

Chuyện dài đời lính

Chuyện một lá cờ

Con nuôi cha không bằng bà...

Cửa Việt bốn ngày đêm băo lửa

Đại Đội 1 Quái Điểu

Dài tựa thiên thu

Di tản chiến thuật

Đồi tranh 3 mộ

Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào

Kẻ tự sướng

Lửa mùa hạ

Đốt ḷ hương cũ tái chiếm Quảng Trị

Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào

Mănh Hổ: Chiến thắng TAKEO 1970

Once Upon a Time, Vietnam (Letter to my children)

Một hậu quả bất ngờ

Người lính TQLC Bên Bờ Bến Hải

Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân

Nguyễn Phúc Thọ

Nhớ về Trâu Điên

Những Emails rất ngắn và rất thật về cuộc
Hành Quân Lam Sơn 719

Những lá thư từ tuyến đầu tổ quốc

Nỗi ḷng người lính

Nơi người lính đi qua

Nỗi ḷng người lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong

Nụ hôn đầu...    

Phóng sự lễ Độc lập tại Thành Phố AUSTIN

Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân

Quá đă !!

Quê hương bỏ lại

Đại Đội 4/TĐ2 tái chiếm Dakto

Tạp Ghi - Chuyện "Nghề Tổ"

Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan

Tháng Ba và Trung Đội 3

Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC Thần Tiễn

Tiểu Đoàn 5 TQLC Đánh Trên Đầu Địch

Tiểu Đoàn Truyền Tin

Toán Thủy Kích Sư Đoàn TQLC

TQLC Nam Cal & Xuân QUƯ TỴ

Trận chiến Đại Phú

Trung Đội Trưởng của tôi... Thiếu Úy Vũ Mạnh Cường

Tuổi Già

Ước Mơ

Viên ngọc nát

Viết thay..

Viết từ "Lưng Núi" Một chặng đời