Đông Vân Nguyễn văn Dõng
Chẳng có gì vui bằng sáng sớm mở mắt ra là
nhìn thấy chim cu đang di chuyển trên mấy sợi dây
điện trước cửa phòng và bật cười một mình khi
nhớ kỷ niệm những năm còn là học trò đi hè với
bè bạn. Một buổi sáng thấy tôi đã thức trong
lúc mọi người còn nướng, một bà bạn vong niên
trong nhóm hỏi tôi chớ ai kêu mà dậy sớm thế. Vì
quen tật nên chẳng kịp uốn lưởi, tôi đáp như cái
máy rằng là cu kêu! Bà chị nạt rằng ở đây có cu
đâu mà kêu. Cũng lại như cái máy, tôi chỉ tay
xuống dưới và bảo nó ở đây nầy. Bà chị đỏ
mặt, chưa kịp phản ứng thì tôi giải thích ngay
để tránh hiểu lầm, có khi rất tai hại, rằng là
phải dậy để xổ bầu tâm sự, vậy nếu như không
phải “nó” kêu thì còn ai trồng khoai đất nầy? Bà
chị bạn lắc đầu bỏ đi một nước, môi mấp máy
nửa như muốn nói, nửa như muốn cười!
Trên ba sợi giây điện giăng ngang qua băi đậu xe cách cửa sổ phòng tôi chừng mươi thước, sáng nào cũng có hai con cu đậu sẵn đó. Tôi chẳng biết chúng nó đã ngủ đêm ở đó hay sáng sớm mới đến. Hai con đều đậu trên cùng một dây điện nhưng cách nhau hơn thước. Được một lúc thì một trong hai con lần mò xáp đến con kia, vừa đi vừa gục gặc đầu, cổ có một khoan màu trắng trông như đeo kiềng, nhưng không nghe lên tiếng. Tôi hiểu ra ngay hắn ta là con cu đực, và trự kia là con cu cái. Khi cu đực vừa đến gần, cu cái liền xê ra xa. Và cứ như thế chàng tới thì nàng lui. Nếu chàng ngoan cố theo đuổi thì nàng bay sang dây điện khác, nhưng chẳng bay đi xa như có ý chọc quê, trêu tức. Anh chàng cũng lì lợm lẽo đẽo theo hoài. Cũng có khi hai con đậu cạnh nhau, rỉa lông rỉa cánh cho nhau rất ư là đầm ấm, cho tới lúc một con trèo lên lưng con kia, cụp đuôi xuống vài giây thì cái màn cụp lạc hấp dẫn mới kết thúc. Tôi chui ra khỏi “cu-ết” nhưng nằm nán lại nhìn chim một thêm một lúc mới dậy. Tôi lại bỗng nhớ đến bài ca Thơ ngây của Anh Việt : “Và trong nắng em nhìn đôi chim...”. Ngắm chim là một cái thú, vì chim nào màu lông cũng đẹp. Nếu được vuốt lông, rờ chim lại càng thú vị hơn.
Tôi dậy một phần cũng do tiếng hót của một con sáo tuy nhỏ con, đen thui, mỏ vàng khè nhưng tiếng hót thật hay như một điệu nhạc, và thật lớn vì nó đậu trên cây trồng ngay trong sân trước cửa phòng khách “ấp-pạt” của tôi. Con sáo nầy cũng vui, cuối Xuân sang Hạ, sáng nào nó cũng đến đậu trên ngọn cây đó hót một hơi có đến mươi mười lăm phút mới bay đi. Xế chiều nó trở lại hót lâu hơn, có khi đến gần hai khắc mới thôi. Con sáo nầy làm tôi nhớ đến một người bạn cùng khóa thời trung học.
Khi sang Pháp, có lần hai vợ chồng anh tạm đi dạy trường làng ở một nơi tuy không xa kinh kỳ sáng chói Paris, nhưng khá hẻo lánh, ít dân cư, thuộc vùng Rambouillet. Hai vợ chồng được cấp một “ấp-pạt” trên lầu ngay trong cao ốc của tòa thị xã. Ngay phía sau nhà có mấy cây khá lớn và nhánh rậm rạp. Các loài chim sâu và một bầy se sẻ về đó làm ổ, ríu rít cả ngày nghe rất vui tai, nhứt là ở một nơi khá vắng vẻ. Bà vợ rất khoái, anh chồng cũng thích nhưng không ưa chúng nó hót vang khi trời vừa sáng, anh chàng có tật ngủ nướng những ngày cuối tuần. Sáng sớm mà chúng nó kêu chí chóe anh chàng chẳng “nướng” được nên bực mình. Một hôm anh chàng bèn tự ý thay mặt các phu làm vườn xách dao ra tỉa hết một lô nhánh cây gần cửa phòng của anh, không để cho lũ chim đến đậu và phá giấc ngủ nướng của anh, bất chấp luật lệ nhà nước. Bị chim phá giấc ngủ có gì đáng bực mình đâu, anh bạn của tôi không nhớ Thế Lữ đã chẳng ca ngợi : Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng... Nhưng không phải “cọp” nên anh chẳng thấy gì là tưng bừng, mà chỉ có bực mình.
Cái bực mình nhứt chính là bị những kẻ xung quanh phá giấc ngủ giữa đêm khuya bằng những tiếng động kinh hồn, tôi đã từng bừng mắt ra lúc 3 giờ sáng vì tưởng VC pháo kích nổ ngay trên đầu (Phản ứng tự nhiên của một Cọp Biển dù đã mấy thập niên qua vẫn còn “ấn tượng”). Tôi tự hỏi không biết có phải cô láng giềng cùng ông bạn vàng, cả hai đều nặng trung bình chừng 80 kí lô, đêm khuya nhúc nhích bạo quá nên lọt xuống giường, hay giường sập cũng chưa biết chừng? Khi còn trong trường cải tạo, anh em than phiền người khôn sống với thằng ngu bực mình. Nay ra xứ văn minh, nhưng theo xã hội chủ nghĩa, tôi cũng chẳng than phiền cách nào khác hơn. Quanh tôi có trên 30 sắc dân, đa số thuộc khối “rệp”. Tha phương cầu thực nhưng lại được chính quyền xã hội bản xứ nâng bi chìêu chuộng nên họ lên mặt xem trời bằng vung. Đám trẻ tha hương cầu thực đã từng ngang nhiên nói thẳng mặt nhân viên công lực rằng đây là khu vực cấm cảnh sát! Ước gì dân Việt trong nước được quyền phát biểu vô tội vạ như vậy, nhưng thực tế ít khi được như lòng ta mong muốn. Bên nhà, lũ công an ngu si nhưng toàn quyền nên cung cách côn đồ là lẽ thường, ở đất nầy toàn người văn minh nhưng tự do quá trớn nên thượng vàng hạ cám gì cũng giống y chang những tên mất dạy, vô đạo, vô luân. Vì trong thế kẹt tôi đành cắn răng chịu đựng, chớ biết đi đâu, than thở cùng ai? Khi được mời tham gia vào cái gọi là Comité extra-municipal, một ủy ban ngoại vi của thành phố, với mục tiêu tìm hiểu và đề nghị giải quyết những vấn đề của các xóm nhà lá vùng ngoại ô, tôi đã lợi dụng để than phiền, còn giải pháp thì chờ tết Maroc! Đã hai thập niên qua mà mọi việc vẫn như cũ, có nơi còn tệ hại hơn.
Trách người làm chi khi nhìn lại mình đã sáu mươi năm qua chẳng khá gì hơn, cũng kém văn hóa như ai. Ngày càng thêm lắm kẻ qui đầu VC, bất kể dốt nát hay khoa bảng, dân sự hay cựu quân nhân. Dốt nát hay dân sự, sanh sau đẻ muộn còn miễn cưởng thông cảm được vì họ không am tường bản chất của loài cộng phỉ Bắc Việt, mắt họ chưa từng nhìn thấy tội ác của bọn chúng, nhưng khoa bảng và quân nhân thì khó lòng tha thứ. Nhìn sơ qua ta thấy ngay rằng những kẻ tráo trở, phản phúc đó đều thuộc hạng người tham sinh úy tử, chỉ biết khoái khẩu, sướng trôn, nhưng tâm hồn vô cảm. Họ là loại người nhỏ, không đủ khả năng đạo đức, hiểu biết luân thường để phân biệt vinh với nhục, thực với hư. Hình ảnh những trẻ thơ Việt Nam lao động khổ sai, hay đi bươi đống rác để kiếm miếng ăn, không đủ sức để rung cảm họ, để ngăn cản họ đi tìm thú vui trên thân xác những cô gái nghèo khó, cái nghèo khó mà họ có ít nhiều trách nhiệm. Chưa nói đến bao nhiêu hình ảnh khác mà trước 75 ta không hề thấy.
Danh với lợi như hai cái chắn che mắt họ như ngựa đường xa, nên họ không thể nhìn thấy gì khác hơn cái... chóp mũi của họ. Họ, nhứt là các cựu quân nhân, nhìn hình ảnh các phế binh sống đời hành khất mà làm ngơ, không hề xúc động. Vô tâm vô cảm vô tri vô sĩ đến mức đó, họ đã gần kề với loài súc sinh. Người còn chút lương tri chỉ cần hai hình ảnh đó thôi cũng đủ để điên tiết lên, cả đời phẫn nộ, có đâu lại “thân cộng” hay nhìn nhận như ông cựu trung tá “cầu thực” ở Paris:“cộng phỉ đã thực hiện được độc lập thống nhứt, sẵn sàng ghi nhận và biết ơn”! Ấy vậy mà cũng còn có một vài đại gia trí thức trách thiên hạ sao cứ nhắc tới nhắc lui một câu nói từ thuở xa xưa. Vậy câu xa xưa hơn “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” được họ nhắc tới nhắc lui tưởng chừng như của họ thì sao? Hay cho rằng việc không khai báo an ninh bắt giữ gian nhân không có nghĩa là tha Tào. Tôi thật không hiểu họ học trường nào mà có lối suy nghĩa khá “cầu kỳ...dị”.
Sau bao nhiêu thập niên trống mái với cộng sản Bắc Việt, cá nhân họ đã từng bị thân bại danh liệt, tàn gia bại sản, bỏ xứ mà đi, làm sao họ có thể giả đui giả điếc như không biết bản chất tham lam, tráo trở, lừa thầy phản bạn, gian ác, bạo ngược, sắt máu, buôn dân bán nước... của giặc cộng để lên tiếng ca ngợi “ VC yêu nước, cách mạng thành công, biết ơn cộng phỉ ”? Để chối bỏ màu cờ quốc gia? Để sẵn sàng quì mọp trước lũ giặc cướp? Để góp sức với giặc đánh phá những người cùng chiến tuyến với họ trước kia? Để kêu gọi xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải nhằm tiếp sức bảo vệ đảng?...
Thật khó lòng giải thích hiện
tượng một số sĩ quan cao cấp VNCH trước kia nay
lại bôi mặt nối giáo cho giặc. Phải chi cộng phỉ
Bắc Việt tốt đẹp, vì dân vì nước, vì tự do, dân
chủ, đàng nầy chúng nó đã tỏ rõ bản chất phi
nhân, độc đoán, cướp bóc, bàn tay của đảng đã
nhúng vào máu của hàng triệu dân Việt không còn
ngụy biện nào bào chữa được, vậy thì lý do nào
thúc đẩy bọn người đó thân cộng, phản bội nếu
không phải là danh với lợi? Danh với lợi cũng
chưa hẳn đủ để họ phản bội, thân cộng, phải còn
một điều kiện giúp họ sức mạnh để vượt qua lằn
ranh đạo lý.
Sức mạnh nầy ắt phải xuất phát từ căn bản
thiếu giáo dục gia đình, hoặc do bản chất tráo
trở “trời sanh” khi vừa chui khỏi...tử cung. Cũng
vì đã tọa lạc trong “cung” từ lúc ban sơ nên bây
giờ bằng mọi cách họ phải tìm vào lại cung
điện ngồi mát ăn bát vàng. Ngoài ra cũng còn có
một điều kiện không kém phần quan trọng, đó là
bản chất ngu si.
Ngu si nên họ đã nghĩ đơn giản rằng VNCH trước đây cũng có hay ho gì hơn ai đâu, tại sao họ phải qui lụy? Họ cho là giữa hai cái xấu, họ chọn cái ít tệ hại hơn. Họ lý luận như trẻ con, các anh tay cũng dính máu, các anh dùng súng của người ngoài để bắn giết người Việt (cách mạng). “Người Việt cách mạng” nói nghe cho xom tụ thật sự họ chỉ là “lính đánh thuê” chính cống của đệ tam quốc tế. Họ quên một điều là súng nào cũng vậy thôi, tiêu diệt bọn thổ phỉ dùng vũ khí Nga Tàu xâm lăng miền Nam, giết hại dân lành là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả người Nam. Thật ra họ chỉ ngụy biện để che giấu tình trạng bất măn, không được thăng tiến vì bất tài trong xã hội miền Nam, nên họ quay ra trông vào “phía bên kia”. Họ là những kẻ đứng núi nầy trông núi nọ. Nhưng họ đã lầm to, vì ngu si nên họ không thấy, không hiểu rằng cái XHCN họ chọn chính là cái tệ hại nhứt trên đời. Ngay cả những người từng lănh đạo “cái nôi của cách mạng vô sản Liên sô” cũng phải lên tiếng cảnh giác thế giới phải “diệt cộng” vì cộng sản không thể “cải tạo”. Chính tổng thống Georges W. Bush còn nhắc nhở rằng :“Tưởng nhớ oan hồn của hơn trăm triệu nạn nhân cộng sản để tận diệt chế độ nầy đến gốc rễ, vì cộng sản là chế độ tàn bạo và phi nhân”.
Trên sáu thập niên trước, André Gide, trong cuốn Retouches à mon retour de l’URSS, đã phải kêu lên: “Il ne restera plus que des bourreaux, des profiteurs et des victimes”. (Chỉ toàn là những tên đồ tể, những ngư ông thủ lợi và những nạn nhân). Việt Nam ngày nay cũng giống y chang như những gì A.Gide đã thấy ở Liên Sô hơn sáu thập niên trước.
Nhìn lại xã hội Việt Nam, ai có đui, có điếc cũng nghe, cũng thấy là đa số dân Việt đang sống đời hết sức lầm than, không những mất tự do mà còn mất cả nhân phẩm, gái bị lột truồng trình làng rao bán, trai bị gởi đi làm nô lệ xứ người... Dân Việt chưa từng biết một cuộc đời như vậy. Do ai? Lẽ nào những kẻ đã từng có chức trọng quyền cao lại không biết, không hiểu? Chắc chắn ít nhiều gì họ cũng biết, cũng hiểu, nhưng cố tình nhắm mắt làm ngơ, nói điều nghịch lý hầu dễ ôm chân lũ cướp để hy vọng được hưởng chút “đồ phế thải”. Họ đáng được “tru di”. Họ không phải là người CS chân chính nhưng họ cũng láo khoét vô liêm sĩ không thua tên CS Pháp Pierre Daix năm 1949 đã rêu rao : “Il n’y a pas de camps en URSS, et si il y avait des camps, alors ce seraient des camps de rééducation”. (Ở Liên sô làm gì có trại tập trung, nếu có đó chỉ là trại cải tạo). Ông ta còn ngang ngược rằng : “ Les camps nazis, c’est l’exploitation de l’homme par l’homme au paroxysme. Mais les camps de rééducation soviétiques, c’est la suppression de cette exploitation, la libération de l’homme !”( Trại tập trung của Đức quốc xã là nơi người bốc lột người tối đa. Nhưng trại cải tạo Liên sô là nơi hủy diệt sự bốc lột đó, là nơi giải phóng con người).
Thế mới biết CS có một sách lượt tuyên truyền dối trá, lừa đảo, vô liêm sĩ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Đó cũng chính là bản chất của CS, mà rất nhiều người chậm hiểu mau quên. Nhờ vậy mà từ 1945 đến 1948 có trên 5.000 người dân Nga tị nạn tại Pháp từ trên 20 năm qua, thúc đẩy bởi lòng yêu nước chân thành, không kịp nghĩ suy chín chắn, đã nhanh nhẩu “đáp lời sông núi” theo tiếng gọi của ma đầu Staline, hăng hái hồi hương để giúp xây dựng lại xứ sở. Trong số có cả những người Pháp theo vợ, theo chồng sang Liên sô, và họ được Staline đưa thẳng vào các trại tập trung, hay được “định cư” trong vùng băng giá Sibérie hoang vắng.
Người dân Triều Tiên cũng không thoát khỏi trò tuyên truyền lừa đảo cố hữu của CS quốc tế. Từ cuối năm 1959 cho mãi đến 1963, những người từng chạy trốn CS Bắc Hàn đã ngây thơ nghe lời đường mật từ bỏ nước Nhựt, bồng bế nhau trở về quê hương để được đưa thẳng vào các trại tập trung, lao động như trâu bò. Trong số trên 90.000 người hồi hương đó, có không biết bao nhiêu bị bán cho Trung Cộng làm nô lệ; một số may mắn trốn thoát trở lại Nhựt. Những người Nga và Triều Tiên ngây thơ nầy, một số mất xác, số còn lại mất hồn vì phải sống đời sống gần như thú vật. Khi biết mình bị gạt một cách tàn nhẫn muốn tháo lui nhưng không còn đường quay lại. Lừa đảo đồng bào của mình để tiêu diệt hậu hoạn nơi hải ngoại một cách dã man đến như vậy phải là người mất nhân tính.
Thế mới biết CS không tin ai dù ai đó có thật lòng yêu nước, là loài vô tổ quốc cộng sản thật ra chỉ biết có “yêu chủ nghĩa xã hội”, hai tiếng yêu nước không có trong ngôn ngữ CS. Staline trung thành với nguyên tắc thà giết lầm vài ngàn còn hơn dung túng lầm một. Dân Việt ta cũng ngây thơ không kém ai, năm 1975, tàu Trường Xuân đã ra đi nhưng lại quay về để đi tù cả lũ! Những tấm gương sống động đó hình như chưa từng được một số “trí thức” VN hôm nay biết, hiểu và ghi nhớ. Hành động, nói năng ngang ngược không biết mắc cở miệng như người CS, từ ngàn xưa vẫn là nét đặc thù của những kẻ độc tài.
Nữ hoàng trứ danh Cléopâtre xài tiền như... bà hoàng, về đêm, dân chỉ có một ngọn đèn dầu leo lét, trong khi dinh thự của bà sáng choang vì bà dùng không biết bao nhiêu là đèn, mà đèn của bà lại dùng toàn dầu ô-liêu mắc tiền. Do đó, bà cần rất nhiều tiền, khi có nhu cầu bà ta đã cho kiểm kê tài sản của các thương gia giàu có, tịch thu số tiền được gọi là “thặng dư”, rồi tỉnh bơ phán rằng: “Ta đề nghị với các ngươi để ta giữ số vàng của các ngươi trong kho an toàn có quân lính của ta canh gác” !
Còn có trường hợp khá ly kỳ của nhiều nhân vật thật lỗi lạc, thông minh xuất chúng, quán triệt cả thiên văn, triết học, giáo lý Chúa, Phật... nhưng lại tôn thờ Hồ Chí Minh, hợp tác với lũ cộng phỉ Bắc Việt! Không ai có thể nói họ ngu như bò, nhưng ai cũng tự hỏi: họ thông minh nhưng họ có trí khôn hay chăng? Thông minh như thế chẳng lẽ họ không nhìn ra tội ác của cộng phỉ? Không thấy chúng nó hà hiếp, đày đọa người dân như chưa từng thấy trong lịch sữ dân tộc, và tội ác của CS với ngoài trăm triệu xác người trên toàn thế giới, và tất cả các quốc gia theo CS đều rơi vào cảnh cùng khổ trong bao nhiêu thập niên vừa qua? Hay trí thông minh của họ có sự lựa chọn? Thiên văn, triết học, giáo lý Phật Chúa đều thao thao bất tuyệt, viết cả sách dạy đời thiên hạ, nhưng những sự việc hết sức cụ thể trước mắt, họ lại không thấy, không hiểu mà cam tâm ca tụng, hợp tác với cộng sản!
Đây mới thật là loại người bí hiểm, nhứt là những kẻ mặc áo nhà tu. Có lẽ cả đời họ chỉ hướng mắt vào cỏi mông lung huyền bí của vũ trụ không gian, của thế giới siêu hình triết học, họ không còn thì giờ hạ mắt chiếu cố đến việc trần tục. Vì vậy nên khi họ rời cơi trên mây trở lại nơi trần thế, họ đâm ra khù khờ ngơ ngác như đám trẻ con, chẳng biết đường nào nên đi, ngả nào phải tránh, như Lưu Nguyễn vừa rời tiên cảnh, cái gì cũng xa lạ, và dễ dàng bị VC dụ dỗ, xỏ mũi, sai khiến. Họ là những kẻ thông minh xuất chúng nhưng vô cùng tối dạ. Kể ra Mao đã có lý khi nói rằng “trí thức chẳng bằng cục phân”. Nghe qua có vẻ quá đáng nhưng nghĩ lại thì rất đáng. Cục phân còn giúp cây lớn mạnh sanh trái ngọt, chớ trí thức kiểu “ngu như bò” chỉ được cái hại đời, hại đạo, còn thối hơn cục phân nhiều.
Biết vậy, nhưng không ai cấm ta mơ với ước, dù biết rằng “giấc Nam Kha khéo bất bình”... bừng con mắt dậy thấy phe mình... lu bu ! Đã 60 năm qua mà dạ vẫn tối ! Đến giờ phút nầy vẫn còn có người, thường là trí thức, lại cũng trí thức, phổ biến những bài viết “chẳng có gì” của Bùi Tín, còn mời mọc hắn, còn chịu khó đi nghe hắn“lên lớp”, họ làm như bao nhiêu năm “cải tạo” nghe lũ quản giáo ngu si chưa đủ, chưa đã. Tệ hại hơn, họ còn có vẻ rất tự toại khi “được” đăng bài của tên VC Bùi Tín, vì họ nghĩ rằng làm như vậy chứng tỏ họ là người “rộng lượng, hài hòa”, không thù vặt ?! Cái nguy hiểm là họ còn ngây ngô, khờ khạo đến mức nghĩ rằng Bùi Tín “ thật tâm ăn năn, thành khẩn khai báo”, dù hắn có từ chối không chào lá cờ vàng của chúng ta; vậy mà những gì hắn nói đáng nghe hơn, và bản thân hắn vẫn đáng tin hơn! Tôi thật tình chẳng làm sao hiểu được cách suy nghĩ nầy của họ. Cho dù Bùi Tín có nói thật đi chăng nữa, những gì hắn nói cũng chẳng ích lợi gì bao nhiêu cho cuộc đấu tranh của chúng ta. Khôn ngoan chúng ta nên để hắn qua một bên. Đuổi lầm mười hơn thâu lầm một.
Hắn về với chúng ta ư ? Tốt, nhưng hảy để hắn ngồi yên một bên, đừng dại dột tin một tên VC có nhiều tuổi đảng và cũng lắm “nợ máu” với dân Nam. Một lúc nào đó không ai lường trước được, hắn sẽ trở mặt gây nhiều bất trắc hiểm nguy chết người cho chúng ta.
Sông sâu còn
có kẻ dò
Lòng người cộng sản ai đo cho cùng?
Cái nguy hiểm lớn nhứt là hắn
âm thầm lũng đoạn, gây chia rẽ hàng ngủ chúng ta.
Công tác nầy hắn vẫn kiên trì theo đuổi.
Đó cũng là mục tiêu hàng đầu của những tên trá
hàng, thời nào cũng vậy. Vả lại thêm họ cũng
chẳng được tích sự gì, chỉ thêm một mối lo như
khi gần gũi người cùi trong mình đầy vi trùng BH
(bacille de Hansen) cho đến nay chưa có thuốc trị.
Chúng ta sẽ bị “sút móng” lúc nào không hay. Cẩn
tắc vô áy náy. Hảy nhớ lời khuyên của lương y:
“ngừa bịnh hơn trị bịnh”.
Những người chống cộng theo dõi VC rất kỹ, vạch mặt chúng nó không chừa chổ nào, nhưng rồi cũng cứ mắc mưu cộng sản. Ấu trỉ chính trị đến thế thì thôi. “ Fini l’eau dire” ! Phải chi chúng ta cứ để cho Bùi Tín và đồng bọn lên lớp với nhau, cộng đồng không ai đếm xỉa đến. Ở xứ tự do ta không thể cho bọn đó đi mò tôm thì ít ra ta phải xem bọn họ như không có, nghe chúng nó chẳng lợi ích gì, đối thoại với chúng nó lại càng toi công, chỉ nên âm thầm theo dơi, đề phòng, lên lớp giữa sa mạc vài lần bọn hắn chán nản sẽ ngưng không đi phun nọc độc nữa, và như thế chúng ta sẽ đánh gục bất cứ một tên nằm vùng, trá hàng nào với sách lược cô lập chúng nó. Trái lại phe ta thường như một đám thiêu thân thích lao đầu vào nơi nào có ánh sáng để xem ḿnh có “ăn ảnh” được hay không! Đến một nhân vật phản động cở như Nguyễn Chí Thiện, lại bị lao hay ung thư phổi nặng, ho ra máu, không đủ trhuốc trị mà vẫn sống nhăn răng cho đến lúc được Đảng cho xuất ngoại, và được chính quyền Mỹ cho nhập cảnh dù đang bịnh nặng, mà cũng có vô số người tin và tôn thờ. Ngây ngô khờ khạo đến mức đó còn biết nói sao? Trong tác phẩm La chute de Saigon, nhà báo, nhà văn người Pháp Olivier Todd đã từng sống ở Việt Nam, cho biết Nguyễn Chí Thiện đã chết năm 1987.
Nhựt báo Người Việt ở Cali đã đôi lần bốn lượt nhục mạ người Việt tị nạn cùng quân lực Miền Nam trước đây mà người tị nạn cũng cứ ủng hộ gởi đăng quảng cáo và mua báo ! Rồi lại gởi thư ngỏ, với chữ ký của đủ thứ thủ lănh các tổ chức rất xôm tụ, cho ban biên tập Người Việt để bày tỏ thái độ và để được giải thích! Sao giống y chang cái thư ngỏ của 36 ông trí ngủ gởi Bắc bộ phủ vừa rồi, thế thì bao giờ mới khá? Có người còn dự định thành lập phái đoàn xin gặp nhựt báo Người Việt để... tôi thật không hiểu để làm gì? Những người nầy làm tôi có cảm tưởng nếu họ cầm súng ngoài chiến trường họ sẽ “kêu gọi người anh em phía bên kia” hảy để súng qua một bên và ra nơi trống trải nói chuyện phải quấy. Họ còn sống ở thời đại Tam quốc chăng? Cái thời mà các tướng Tàu ra trận chữi bới phải quấy với nhau đã đời rồi mới xáp chiến.
Không biết những người chủ trương có hiểu rằng những hành động đối thoại đó mặc nhiên nhìn nhận Báo Người Việt là “phe ta đang lạc đường” nên anh em xúm nhau lại chỉnh đốn, dù rằng chúng không giấu cái đít đỏ lòm, ông chủ bút đã từng có mặt trong một văn phòng có treo cờ đỏ sao vàng bên cạnh tên VC Nguyễn Xuân Phong, và ông chủ báo còn hội họp với cả Nguyễn Tấn Dũng. Bao nhiêu chứng tích đó chưa đủ để kết án chúng là VC hay sao?
Lại có kẻ lắm mồm rằng giao du là quyền tự do của mọi người. Tiếp xúc với VC đâu hẳn là VC? Đúng, chưa hẳn là VC nhưng là việt gian, bởi vì chỉ có gian nhân mới giao du với hiệp đảng cộng phỉ. Hay phải chờ khi nào chúng nó xuất trình thẻ Đảng? Rồi cũng dám có người cho là thẻ giả! Có ai hiểu được hành động chính trị nầy xin chỉ dẫn dùm làm phước.
Ngây thơ, rộng lượng cũng vừa phải thôi, quá ngây thơ thành khờ khạo. Đừng quên lời dạy của ông bà: “thiệt thà là cha dại”. Trước một cường địch gian manh xảo trá, chuyên lừa bịp từ bao nhiêu thập niên qua, mà ta cứ tiếp tục cái trò “quân tử Tàu” sợ mất lòng, dĩ hòa vi quí, thiếu quyết tâm, dứt khoát... thì chỉ có chết. Miệng cứ bô bô như két làm như mình là người rộng lượng, khoan dung “đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại”, “lấy trí nhân thay cường bạo”...
Đồng ý, nhưng bọn đó sẵn sàng xin đủ thứ lỗi cho qua lề, làm bất cứ gì để nhứt thời xoa dịu dư luận rồi đâu cũng vào đó, chúng nó lại tiếp tục đánh phá, rồi lại xin lỗi... Lui một bước để tiến hai ba bước đó là chiến lược cố hữu của chúng, ai cũng đã từng thấy nhưng chẳng mấy ai nhớ. Và có ai hiểu cho rằng trí nhân chỉ có thay thế thôi, trí nhân không đủ sức để đánh dẹp cường bạo trước khi thay nó. Trong cuộc cách mạng hoa lài của các nước Á-Rập, ta đã thấy chỉ có bạo lực mới thắng được hung tàn. Nếu sợ máu thì đừng học đòi làm đồ tể.
Trong vụ nhựt báo Người Việt, không chỉ cô lập tờ báo, mà phải cô lập tất cả những ai cộng tác với tờ báo đó. Và phải cô lập triệt để, chúng nó lò mò tìm hay lập tờ báo khác để tiếp tục công tác là phải cô lập ngay tờ báo đó. Như vậy chúng nó mới hết đường ngo ngoe. “Cạn dòng lá thắm,dứt đường chim xanh”. Hết đường sống, bọn chúng sẽ không dám nhúc nhích nữa. Chứ đã biết rõ Thúy Nga Paris với Nguyễn Ngọc Ngạn là việt gian mà khi chúng nó tổ chức nhạc hội lại rần rần kéo nhau bỏ tiền ra ủng hộ chúng nó v.v... Thế là thế nào? Dân ngu thì hùa nhau ngụy biện rằng văn nghệ chớ không phải chánh trị, ai làm chánh trị thì đi chổ khác chơi ! Họ không làm chánh trị, thế sao khi VC vô họ cũng đi chỗ khác chơi? Lại còn van xin thiên hạ ban cho danh hiệu tị nạn chính trị? Quả thật người khôn sống với thằng ngu bực mình.
Một bằng chứng cụ thể khác về chuyện ấu trỉ chính trị của dân ta là vụ Mặt Trận những năm 1980. Phe mình gạt dân ta hết sức nhẹ nhàng, và gạt đến hàng trăm ngàn người tị nạn, thượng vàng hạ cám đều không tránh khỏi! Thật là chuyện hi hữu, khó tin nhưng có thật. Thời đó không thấy ai nêu thắc mắc dù rằng có rất nhiều điều để thắc mắc. Chỉ có vài ba người “liều mạng” chỉ trích thẳng thừng M.T.và anh em Hoàng Cơ Minh, và họ đã bị khá nhiều nguy khốn. Chỉ cần có chút xíu hiểu biết, và suy nghĩ để nhận ra ngay rằng kháng chiến là chuyện “ruồi bu”.
Nói kháng chiến là nói đến vũ trang, từ đó suy ra tài chánh nào đủ để thực hiện việc đó, bởi vì vũ khí là loại “xa xí phẫm” rất mắc tiền. Muốn đánh nhau với VC ắt phải có quân, mà phải có nhiều quân, ít lắm cũng phải vài ngàn để làm bàn đạp tiến tới. Tiền đâu trang bị cho bao nhiêu đó quân, nếu thật sự có quân. Cái thắc mắc chính là về số quân đó đào đâu ra? Mộ lính ở hải ngoại ư ? Chuyện “pha chè”.
Thoát ra được hải ngoại, các thanh niên lo lao động quần quật để xây dựng gia đình, chẳng có mấy ai dư thì gìờ bỏ vợ bỏ con quay về đánh đấm. Chỉ còn có thể tuyển mộ trong các trại tị nạn vùng Đông Nam Á, liệu có được...chục người? Nội chuyện “quân” không thôi cũng đủ thấy là kháng chiến dỏm, chưa bàn đến chuyện chiến khu. Làm sao Mặt Trận lập được chiến khu cho hàng ngàn quân trú ẩn? Chắc chắn là chiến khu phải nằm trong lănh thổ Việt Nam nếu thật sự muốn ăn thua với VC; chẳng lẽ lập chiến khu ở Thái Lan để... trình diễn kiếm bạc cắc à? Có ai đâu dại dột chứa chấp loạn quân trên đất của họ để VC có cớ gây hấn, quấy nhiểu. (Nghĩ lại có khi chính mình tối dạ đã không hiểu rằng mục tiêu của M.T. ở hải ngoại là cộng đồng người tị nạn chống cộng chứ nào phải VC). Nhưng làm sao vào được VN, dù chỉ để tuyên truyền thôi chứ chưa nói đến chuyện lớn lao lập chiến khu. Cái gương của Trần văn Bá sờ sờ ra đó. Thật ra chính anh Bá cũng mù tịt về VC nên mới liều mạng nhắm mắt đưa chân như vậy, chứ nếu anh ấy biết thế nào là công an nhân dân thì có cho vàng anh ấy cũng chẳng dám về kiểu đó. Biết ta mà không biết VC thì ta chỉ có “hui nhị tì” cũng đừng thắc mắc. Khi đem anh Bá ra bắn chắc VC cũng thấy thương hại anh ấy, tuổi trẻ tài cao mà sao ngây thơ quá mức. Mà nghĩ cho cùng thì đa số các ngài khoa bảng đều như thế cả; họ đi mây về gió với nàng tiên nâu, họ đâu biết đi đất lội sình như lính nhà binh để biết thế nào là súng đạn AK, CKC...
Cứ thử một toán năm ba người vượt biên giới vào Miên, Lào thôi, sẽ biết đá biết vàng. Cụ thể chính bản thân ông Hoàng Cơ Minh và những cận vệ đã chứng minh điều đó. Việc nầy tôi đã có dịp may bất ngờ để bày tỏ với chính Hoành Cơ Định khi ông ấy, nếu không phải ai khác mạo danh, điện thoại cho tôi đôi ba năm sau ngày Hoàng Cơ Minh bị giết. Ông gọi tôi không phải để cho tôi bày tỏ ý kiến gì cả, mà để hỏi tôi một câu làm tôi chưng hửng và ... vui vui :
- Anh Dõng nầy, nghe nói anh còn một số “anh em” bên nhà, vậy anh có thể cho tôi xin địa chỉ vài người để liên lạc được không?
Tôi liền đề nghị ngược lại, ông nên cho tôi danh tánh và địa chỉ người của ông trước đã. Dĩ nhiên là ông ta từ chối. Sẵn đó tôi liền nêu ngay thắc mắc: vì sao một đề đốc, thủ lảnh một tổ chức đấu tranh, mà hành động như một tên dân vệ ? Chỉ vài mươi người vũ trang tối thiểu, không đường tiếp viện mà ngang nhiên xâm nhập biên giới xứ người đang dưới quyền kiểm soát của VC là sao? Ông là sĩ quan thật hay sĩ quan dỏm? Mặt khác, là thủ lănh một tổ chức đấu tranh mà không bảo trọng lấy thân, tức bảo trọng tổ chức, hy sinh lảng xẹt như vậy là thế nào?... Tôi chưa nói hết ý thì bên kia cúp máy.
Cái thắc mắc thứ đến là vấn đề tài chánh để nuôi quân, chỉ nói chuyện nuôi quân thôi cũng đã là chuyện bất khả. Với số tiền năm mười triệu quyên góp được, Mặt Trận sẽ nuôi được bao nhiêu quân, trong bao nhiêu ngày? Bây giờ biết ra thì quân chỉ có hơn chục người, vậy số bạc triệu kia nay ở đâu? Chắc phải hiểu rằng bây giờ là quỹ của Việt Tân, được thành lập ngày 10/9/1982, có thể nói là cùng lúc với Mặt Trận, nhưng chỉ công khai ra mắt năm 2004 tại Bá Linh, khi Mặt Trận, rồi Liên Minh Việt Nam Tự Do, rồi Hội nghị liên kết... tan hàng. Ngày hợp Hội Nghị Liên Kết, Nguyễn Ngọc Bích không quên mời tôi sang Hoa Thịnh Đốn, nhưng tôi từ chối. Trần Đức Tường cũng đã không quên gởi một tấm thiệp rất trang trọng mời tôi sang Đức dự lễ ra mắt đảng Việt Tân. Tôi cũng từ chối không đi, nhưng đã dùng tấm thiệp đó viết cho Tường mấy chữ đại khái hỏi Tường chứ sau Việt Tân sẽ còn gì nữa cho tôi biết luôn. Tóm lại, phe ta đã mắc mớp phe mình một cách hết sức ngây ngô, khó tưởng.
Lần Mặt Trận tổ chức đại lễ giổ tổ Hùng Vương tại Paris, tôi đưa gần 60 bà con từ Clermomt Ferrand lên du ngoạn thủ đô, sẵn dịp đưa bà con đến dự luôn thể để buổi lễ thêm khí thế theo yêu cầu của Tường. Trong phòng làm lễ, khi tôi đang sắp xếp chổ ngồi cho bà con thì có ai đó tìm tôi. Ngẩng lên thì chẳng ai lạ mà là Mũ xanh Hồ Thiện Hiền cùng bốn năm anh em từ Berlin sang. (Hiền đã từng ở lán I, trại Long Giao với tôi, mấy anh em kia thì ở trại Bổ Túc-Tây Ninh và Suối Máu–Biên Hòa). Anh em đều mặc đồng phục đoàn viên Mặt Trận, trừ Hiền. Hiền là em rể của Chu Phạm Ngọc Sơn, một cựu học sinh Taberd, “phó thủ trưởng” hội Trí Thức Yêu Nước, nhưng Hiền đã “từ” không nhìn Sơn nữa vì Sơn phục vụ chế độ. Anh em gặp lại nhau thật vui thật mừng. Hiền hơi ngạc nhiên không thấy tôi mặc đồng phục. Tôi cười bảo rằng tôi không dính líu gì đến M.T. cả mặc dù Trần Đức Tường và Bùi Trịnh Hữu cứ xem tôi như một đoàn viên có lẽ vì tôi rất thường có mặt quan sát các sinh hoạt của M.T. (Có lần tôi đã hy sinh luôn ba ngày cuối tuần để tham dự một “khoá huấn luyện” đoàn viên tại Villeneuve St Georges xem sao, dù rằng tôi không phải đoàn viên, nhưng được mọi người vui vẻ chấp nhận). Anh Hữu đã gởi tặng tôi một bộ đồng phục. Cũng như tôi, Hiền không dính dáng đến M.T, nhưng quyết tâm theo anh em sang Paris chỉ cốt để tìm tôi, mấy anh em kia cũng thế mặc dù họ là đoàn viên M.T. Dịp đó tôi lôi anh em tránh xa nơi có nhiều tai mắt và nêu tất cả những thắc mắc của tôi. Hiền hoàn toàn đồng ý, anh em tìm tôi là cũng vì những nghi vấn đó. Nhưng Hiền khuyên tôi không nên công khai nêu lên những chuyện đó chẳng có lợi cho tôi. Đã từng biết tính tôi trong tù, Hiền lo ngại cho tôi nên luôn khuyên tôi chưa phải lúc để nêu vấn đề.
Nhưng cứ ấm ức trong lòng nên rồi một thời gian sau, tôi đã gọi Trần Đức Tường, lúc đó đã là khu bộ trưởng M.T. (xứ bộ trưởng là anh Bùi Trịnh Hữu), hẹn một ngày cuối tuần sẽ lên nhà hắn để bàn tí việc nhưng chẳng nói là việc gì. Tường dặn tôi lên chiều Thứ Bảy ăn cơm và ngủ lại nhà hắn ở Evry. Tôi rất mừng vì nghĩ là sẽ có nhiều thì giờ để anh em bàn thảo. Nhưng Tường đã gọi cả gia đình Nguyễn Vô Kỹ và Nguyễn Ngọc Đức, một đoàn viên trẻ đang lên, cùng đến chơi, và chơi đến quá khuya. Kỹ, Tường đều là bạn học với tôi từ thuở trung học Taberd. Khi Kỹ và Đức ra về thì đã quá khuya, Tường bảo con đưa tôi vào phòng nghỉ ngơi. Vậy là trớt quớt. Tôi nghĩ bụng chắc là Tường không muốn tôi đề cập trực tiếp với hắn những vấn đề “khó ăn khó nói”, nhứt là với tôi. Có lần Tường đã thẳng thừng không chút rào trước đón sau bảo tôi như ra lịnh :
- Mầy dẹp cái vụ Liên Hội của mầy đi.
Đó là lần tôi xuống Toulouse ở nhà Hồ Bá Thọ để gặp gở anh em dưới đó bàn việc thành lập Liên Hội Người Việt Tự Do tại Pháp. Tường cũng có mặt vì M.T. đang có hoạt động ở Toulouse. Thay vì khuyến khích anh em chúng tôi trong việc kết hợp người Việt tị nạn, Tường lại chống đối. Tường làm tôi suy nghĩ và buồn cười vì nghĩ có lẻ M.T. sợ bị cạnh tranh. Rốt lại thì phe ta đấu tranh với nhau trước, tỉa nhau cho hết để cuối cùng VC dứt điểm cho dễ dàng. Vài năm sau, 1992, cung cách nầy tôi cũng được Lại Thế Hùng xác nhận khi bất ngờ tôi gặp Hùng lang thang ở Hoa Thịnh Đốn nên lôi Hùng vào dự một phiên hợp thành lập Tổng Liên Hội Người Việt Tự Do Hải Ngoại. Tại đây ban tổ chức đã ngỏ ý mời hội Cộng Đồng Người Việt tại Âu Châu của Hùng tham gia vào Tổng Liên Hội. Hùng lên diễn đàng nói trăng nói cuội, đao to búa lớn – parler pour ne rien dire - như thường lệ trước khi dõng dạc tuyên bố một câu xanh dờn :
- Chúng tôi là Cộng Đồng Người Việt Âu Châu, nếu gia nhập vào Tổng Liên Hội thì cái Liên Hội Người Việt Tự Do tại Pháp phải được giải tán hay sáp nhập vào Cộng Đồng.
Hùng làm anh em kinh ngạc và mỉm cười lắc đầu quầy quậy, cái thiển cận, vị kỷ, ấu trỉ, tự cao... của phe ta đã phá nát cộng đồng tị nạn từ bao nhiêu năm qua. Liệu rồi nó còn tiếp tục phá nát đến bao giờ? Hình như phần lớn trong số những lảnh tụ các đoàn thể hải ngoại đều có chung một mẫu số: chường mặt ra trước ống kính và trước “micro” nói bất cứ gì miển sao gây được sự chú ý để mọi người xem là... lănh tụ, biết đâu mai sau lại không “ngáp phải ruồi”, không có một tương lai sáng sủa. Đó cũng là một hình thức đầu tư chính trị !
Thỉnh nguyện thư vừa qua cũng “xem xem”. Đài SBTN đã không chút ngượng ngùng lợi dụng ngay cơ hội để đưa đàn em Young Leaders vào giới thiệu với tòa Bạch Ốc, thỉnh nguyện thư lẹt đẹt theo sau, thành ra thứ yếu, chẳng được lưu ý như mong muốn. Mặt khác, muốn bắt chẹt kinh tế VC phe ta lại yêu cầu Hoa kỳ cấm vận, trong lúc cộng đồng cứ tuôn tiền ra về VN du hí, số tiền lên đến bạc tỉ đô chớ đâu phải nhỏ. Ý thức chính trị của cộng đồng bỏ đâu mà lại đi làm một chuyện phải nói là đầy hảo ý nhưng lại vô ý thức đến như vậy? Trước kia miền Nam chỉ được Mỹ chi viện hàng năm có vài ba trăm triệu thôi, vậy mà đánh cộng chạy dài dài. Nay nhận hàng tỉ đô mỗi năm, VC sẽ trường thọ ! Miệng thì chống cộng ầm ĩ, tay lại nâng bi, nuôi dưởng chúng nó. Đấu tranh kiểu nầy chắc đến tết Congo mới có kết quả. Kết quả nếu có, sẽ do ai đó đũ mạnh để áp đặt lên xứ sở, và dân Việt lại tiếp tục thân trâu ngựa dưới một hình thức mới mẻ hơn. Đường đậu gạo nếp lúc nào cũng có sẵn trong nhà, nhưng phải chờ người ngoài đến mở hảng xưởng sản xuất bánh kẹo làm giàu và ta đến xin làm công, tiếp tục cuộc đời ăn bám, chẳng bao giờ biết tự cường. Không biết tự cường thì đừng mơ độc lập, tự do, hạnh phúc! Từ ngàn xưa ta là giống Lạc Hồng nước Đại Ngu, đến ngàn sau, vì chỉ biết có hưởng lạc, ta là dân... lạc hậu nước đại ngu!
Bốn ngàn năm qua, thiên hạ đã rời cung trăng trên đường lên hỏa tinh mà ta vẫn còn bò bốn cẳng, loanh quanh trong vòng lạc hậu, có đáng tự hào lắm không hởi các ông khoa bảng? Hay các ông lại dạy rằng thằng dân nó dốt, chớ khoa bảng chúng tôi đâu có dốt ! Đúng. (tuy rằng cũng có một số khoa bảng rất dốt đấy các ông ạ). Các ông đã phán như thế thì chả ai có thể phản bác. Các ông không dốt, nhưng đại đa số các ông ngu si mù quáng, chỉ biết nhìn lỗ rún và chóp mũi, nói năng, viết lách láo lếu chỉ để khoe khoang những hiểu biết sách vở từ chương, trên đường đời thì ngờ nghệch, nên bọn cán bộ VC, rất tinh ranh vì được huấn luyện, dẫn dụ vào con đường phản phúc, thân bại danh liệt, gây nguy hại cho cộng đồng mà các ông vẫn không hay không biết.
Đã từng có vài vị đại khoa bảng “tôn sư” những tên “sư CS thứ thiệt” nằm vùng một cách hết sức thành kính, hay bị những cán bộ hạ cấp lừa bịp hết sức dễ dàng. Họ học nhiều nhưng vì chỉ biết có cái danh và cái lợi riêng tư nên đâm ra tối dạ. Một chuyện điển hình là vụ “Diễn hành mùa Hè” vừa qua tại Paris. Phe ta đã ngây ngô nhận lời mời để cùng tổ chức cuộc diễn hành với đoàn văn công từ VN sang. Chỉ vì một chút hư danh mà trước mắt thiên hạ người Việt tỵ nạn CS tại Paris đã “hòa hợp hòa giải” với CSBV, tự đặt mình dưới trướng của chúng nó. Vậy mà vẫn huênh hoang hảnh diện. Còn có cái ngu si mê mụôi nào hơn?
Và một vụ điển hình khác, một ông khoa bảng trẻ ở Texas đang gây xáo trộn náo loạn cả cộng đồng địa phương cũng nhờ vào cái dốt nát của các ngài đại diện các đoàn thể. Khi một bác sĩ trẻ bỏ của, số bạc khá lớn mà chưa có người trẻ nào dám làm, xây tượng đài để tỏ lòng ngưởng mộ và biết ơn của một hậu duệ đối với các bực cha chú đã vị quốc vong thân. Nghe qua thì ý nghĩ và hành động nầy không có chổ nào chê được. Thế nhưng, trên chính trường, người khôn sẽ đặt ngay nghi vấn: chuyện có thật nhưng hơi khó tin, một BS trẻ sao dám chi đến vài chục ngàn đô? Thật là độc nhứt vô nhị. Ấy vậy mà chỉ nghe thấy toàn lời khen và mọi người nhào vô ủng hộ. Hành động ủng hộ không đáng trách, đáng trách chăng là hành động thiếu suy nghĩ. Khi mình cho một đồng thì trong túi phải có ít ra là 10 đồng, còn gia đình vợ con nữa chứ. Khi ông BS xuất túi đến trên chục ngàn thì hẳn ông phải còn trong nhà băng ít lắm cũng vài trăm ngàn. Tôi tự hỏi ông làm chuyên môn nào trong nghề, thẫm mỹ chăng, mà tuổi trẻ tài cao lại thu nhiều bạc đến thế. Cứ nhìn vào cung cách hành sự của ông BS và những người sau lưng ông cũng có thể nghi ngờ thiện ý của họ và ngửi thấy ngay âm mưu của những kẻ núp bóng, mượn danh ông BS để thực hiện ý đổ bôi bẩn hình ảnh người quân nhân VNCH.
Họ làm việc ngược đời nhưng nhờ cái dốt của thiên hạ nên họ vẫn tiến hành theo chương trình riêng của họ, làm một tượng đài với anh lính VNCH ngồi ôm lá cờ, mặt mũi bơ phờ rầu rĩ! Một bức tượng như thế chỉ nên đem tặng BS Trung Chỉnh để ông đặt vào nghĩa trang quân đội của ông. Trong mọi hoạt động chính trị, đấu tranh luôn luôn phải “dương cao ngọn cờ”, đàng nầy ông BS trẻ lại hạ cờ hay cuốn cờ để lên gối! Rõ ràng ông BS muốn làm tượng đài để ghi nhớ cuộc “chiến bại” của dân Nam.
Cho đến giờ phút nầy mặc dù vài người có ý thức, nhận ra việc làm mờ ám, lên tiếng “chỉnh”, phản đối, nhưng họ vẫn không nhân nhượng. Khởi đầu họ đặt mọi người trước việc đã rồi: họ đã có ủy ban xây dựng tượng đài, có mô hình tượng đài, có nơi đặt để tượng đài...Họ làm việc hoàn toàn phản dân chủ. Nhưng đáng trách vẫn là các ngài đại diện các đoàn thể tại địa phương, họ chưa đui sao họ chẳng nhìn thấy gì hết vậy? Họ lại còn rần rần kéo nhau tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên, có cả Lại Thế Hùng chường mặt ra “phát biểu” lỉnh kỉnh! Thật là hết nước nói. Ngu si dốt nát đến mực đó thì làm sao thắng VC.
Nếu ông BS trẻ kia thật lòng thật dạ, thì việc đầu tiên ông phải làm là gặp gở đại diện các đoàn thể cùng thân hào nhân sĩ hỏi ý kiến. Sau đó mới chính thức mời hợp để bầu ra ủy ban xây dựng tượng đài. Ủy ban sẽ tham khảo ý kiến rộng rãi để nặn ra mô hình của tương đài lính Mỹ lính Việt? không có lính Mỹ? Hình ảnh buổi dựng cờ ở Phú Vân Lâu, Huế, kỷ niệm chiến thắng Tết Mậu Thân? Hay trên cổ thành Quảng Trị kỷ niệm chiến thắng Mùa Hè Đỏ Lửa?.. Có mô hình được mọi người trong vùng chấp thuận chừng đó mới tính chuyện gây quiỹ, tìm nơi dựng tượng và sau cùng mới tới chuyện làm lễ đặt viên đá đầu tiên. Việc đơn giản như vậy mà ông BS tuổi trẻ tài cao vẫn qua mặt được thiên hạ, cái mới lạ lùng. Quả thật 60 năm qua dạ vẫn tối. Còn biết nói sao ? Sống trên một nước dân chủ vào bực nhứt thiên hạ trên 30 năm qua mà sao không học được gì hết vậy? Thế thì biết đến bao giờ dân Việt mới mong thoát khỏi cảnh bị thiên hạ đè đầu cởi cổ ?Tuy nhiên cũng còn chút may mắn là giờ chót nhóm người hiểu biết đã vận động thành công việc ngưng xây cất một tượng đài như thế.
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn.
Trong đấu tranh với CS, sợi dây tình cảm, tính cả nể dĩ hòa vi quí sẽ trói chúng ta lại cho chúng nó dứt điểm. Nếu cứ tiếp tục ngây thơ, thiển cận, thiếu cương quyết, không biết hy sinh lại dễ tin xin đừng chống cộng, không những vô ích mà còn gây tai họa cho đại cuộc. Chính cái ngu, cái dốt, cái tự ti, ích kỷ... đã phân hoá chúng ta và đưa chúng ta vào con đường chống nhau cũng hăng không thua chống cộng bao nhiêu.
Đông Vân
Âm Thoại Viên theo chân các Đại Bàng
Cao Xuân Huy - Mỉm cười nơi chín suối
CĐ B/TQLC - Cuộc hành quân đổ bộ Deck House V/Sóng Thần 1/67
Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào
Đốt ḷ hương cũ tái chiếm Quảng Trị
Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào
Mănh Hổ: Chiến thắng TAKEO 1970
Once Upon a Time, Vietnam (Letter to my children)
Người lính TQLC Bên Bờ Bến Hải
Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân
Những
Emails rất ngắn và rất thật về cuộc
Hành Quân Lam Sơn 719
Những lá thư từ tuyến đầu tổ quốc
Nỗi ḷng người lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Phóng sự lễ Độc lập tại Thành Phố AUSTIN
Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân
Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan
Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC Thần Tiễn
Tiểu Đoàn 5 TQLC Đánh Trên Đầu Địch
Trung Đội Trưởng của tôi... Thiếu Úy Vũ Mạnh Cường
Viết từ "Lưng Núi" Một chặng đời