Đông Vân
Nguyễn văn Dõng.
- Thấy vợ con người ta mà ham!
- Ê, nói năng cẩn thận tí nghe bố, không phải ỷ già rồi
muốn nói sao thì nói, lạng quạng bọn trẻ nó nghe được nó
bảo mình già dịch.
- Ừ, thì mình cũng có “dịch” thật, dù dịch ít hơn xưa.
Nhưng nói thật mầy nghe, dạo sau nầy bà nhà tao đổi tánh
ghê quá, đôi khi tao phải bỏ nhà đi vòng vòng ngoài vườn,
ngoài phố cho nó thoáng cái đầu.
- Mầy làm như có một mình bả đổi, còn mầy thì lúc nào
cũng trơ trơ cùng tuế nguyệt!
- Không phải vậy, bả tự nhiên trở nên kỳ cục, hồi nào tới
giờ có khi nào bả ghen tương gì đâu, dù bóng gió, mấy mươi
năm rồi lúc nào cũng hoà hợp hòa giải hết sức vui vẻ,
mầy cũng biết tính tao. Tao muốn đi đâu, lúc nào thì cứ đi,
bây giờ gần đất xa trời tự dưng bả lại kiếm chuyện. Mỗi
lần tao ra Connexion xem máy móc là bả cằn nhằn cử nhử “Đi
đâu đi hoài, ở nhà một chút có được không...” Bực cả cái
mình.
- Bực mình rồi mầy có cự bả không?
- Lúc đầu thì không, nhưng thét rồi phải cự.
- Tội nghiệp bà già.
- Tội cái quái gì, mầy chưa lâm cảnh chưa biết...
- Tại mầy không hay, không biết chớ bà nhà tao cũng như bà
nhà mầy, và bà nhà mầy thì cũng như thiên hạ thôi. Chả có
gì mới lạ dưới ánh mặt trời, chỉ có tao là không như mầy,
chẳng bao giờ tao cự nự cả. Không phải tao không “nhạy cảm”,
mà cũng bực mình lắm chớ, đôi khi “muốn kêu một tiếng cho
dài kẻo câm”, nhưng tao hiểu rằng là mấy bà thuộc giai cấp
“cổ lai hy” đều mắc phải cái bịnh lo, bịnh sợ. Họ sợ
những bất trắc đang rình rập họ, nào tai nạn, nào bịnh
tật, nào chết chóc... Họ sợ có chuyện gì không ai giúp đỡ,
tóm lại họ sợ cô đơn. Mầy cũng còn may là bả chưa nuôi
chó, nuôi mèo để thế mầy hủ hỉ cho đỡ buồn.
- Thì đồng ý, nhưng đi một chút cũng không xong thì chẳng lẽ
tao phải ngồi ở đầu giường canh bả hay sao? Tao vẫn phục
cái tài tỉnh bơ của mầy, tao thì rất dễ xì-nẹt.
- Thì ai lại chẳng xì-nẹt, nhưng phải biết “làm chủ” mấy
sợi dây thần kinh của mình, thế thôi. Thú thật với mầy tao
không bao giờ lên giọng với bà xã, cũng chẳng khi nào cằn
nhằn cử nhử gì hết. Khi có chuyện không bằng lòng làm tao
xì-nẹt thì tao đi chỗ khác chơi, cắn chặt hai hàm răng lại,
không cho cái “lưỡi rắn” nó thò lò ra lải nhải gì hết. Khi
nào trời yên biển lặng tao sẽ đi đường lưỡi sau. Vậy là vui
vẻ cả nhà và vui vẻ dài dài, có gì khó đâu. La hét ngay
tại chỗ chỉ mất hòa khí, chẳng ích lợi gì. Những cái sứt
mẻ tí ti đó lâu ngày tụ lại thành bể nát.
- Biết vậy nhưng không nhịn được...
- Mầy nói chuyện ngộ thiệt, biết vậy mà không chịu nhịn
là sao?
- Không phải ai cũng làm như mầy được. Tụi tao đều biết mầy
không giống ai. Mấy thằng chưa biết mầy, nghe nói vợ chồng
mầy không bao giờ cãi nhau, tụi nó đếch tin và cho là mầy
“pas normal”.
- Tụi nó nói có khi đúng, ở đời cái gì mà có nhiều
người nghe, nhiều người làm thì cái đó đúng “tiêu chuẩn”
của một sự việc “bình thường”. Còn cái thật sự phải là
chuyện bình thường nhưng vì chẳng có mấy người “chấp nhận
được” thì nó trở thành chuyện không bình thường. Đó cũng
chính là cái cốt lõi của thể chế dân chủ: đa số có lý, đa
số thắng. Nhờ vậy nên cái đám “ái nam ái nữ” mới được
công nhận “cưới hỏi” ăn ở với nhau như những kẻ bình
thường. Văn minh thời đại có những chuyện nghịch thiên không
ngửi được. Đúng là cái lưỡi không xương, đến cả tình ái,
cái dài cái vuông mà nó cũng vo tròn bớp méo được.
- Sẵn đây tao hỏi mầy luôn, mầy làm sao mà nhịn hay vậy?
- Chẳng có gì khó hết, tao đặt mọi việc trên căn bản tình
yêu, nếu mầy thật tâm thương yêu bà xã thì phải luôn nhớ
điều đó để không bao giờ nói lời xúc phạm đến tình yêu
kia. Trong tình yêu còn có sự kính trọng nhau, nếu mầy ý
thức đúng mức điều nầy thì mầy sẽ chẳng bao giờ xài xể
người mầy đã từng quì gối ôm chân bắt giò, thở dài thườn
thượt, xuống sáu câu ai oán ỉ ôi nào là “đài gương soi đến
dấu bèo cho chăng”..., theo đuổi trong hồi hộp, lo âu, sầu
khổ, ăn không ngon, ngủ không nhắm mắt... Có thằng bạn bảo
tao là nó thương vợ lắm, xem bả như, hoặc hơn cả bản thân...
Có lẽ chính vì xem bả như thế, nó quên rằng bả là một
người bạn đường xa, nên nó rầy rà, nạt nộ vợ nó như kẻ ăn
người ở trong nhà! Thương vợ kiểu vô ý thức bất bình đẳng
đó thì tao xin can mầy nhé.
- Nghe mầy nói sao dễ quá...
- Thật ra thì chẳng dễ cũng chẳng khó, chỉ có chịu khó
suy nghĩ và luyện tập. Chí công mài sắt có ngày nên kim.
Tao đã suy nghĩ từ thuở vừa lớn khôn, và tao cũng đã sớm
hiểu câu văn ôn võ luyện. Không có gì mà ngày trước ngày
sau là đạt được. Đặc biệt cái hạnh phúc gia đình, hay cái
hạnh phúc tout court, nó đòi hỏi biết mình, hiểu đời, phải
biết cách thương vợ, thương con. Ừ, đến việc yêu thương ngoài
những “kiểu”, còn phải biết “cách” nữa, chớ không phải
muốn yêu thế nào thì yêu. Mà muốn biết được cái “kiểu
cách” đó mầy phải hiểu “đối tượng”, tức phải “biết người
biết ta”. Cũng như bất cứ chuyện gì, muốn biết thì phải
chịu khó bỏ công quan sát, suy nghĩ. Chỉ có vậy thôi, có
gì rắc rối đâu. Cái rắc rối chính là chuyện “đối tượng”
không chịu biết, không chịu hiểu như mình. Mà ở đời khi
bánh ít đi mà bánh qui không lại thì chuyện cơm không lành
canh không ngọt gần như là hậu quả đương nhiên, khó lòng
tránh khỏi, bởi vì sức người có hạn, nhường nhịn nhau
cũng chỉ tới chừng mực nào đó thôi. Nghĩ cho cùng thì
“vạn sự khởi đầu nan”, thưở ban đầu chỉ biết có cái
đẹp... sau đó đa số đều gặp phải lắm vấn đề đôi khi nan
giải phải đi tới tan vỡ. Họ không nghĩ rằng thường tình
những người trời cho đẹp lại hay nông cạn chỉ vì phải lo
chăm sóc cái đẹp bên ngoài nhiều hơn cái tâm của họ.
- Mầy triết lý kinh bỏ mẹ! Làm thế quái nào mà biết được
ai châm lo cái tâm? Châm lo cái sắc thì lộ liễu dễ biết và
dễ lôi cuốn hơn. Một người không đẹp mầy lấy gì bảo đảm
tâm họ đẹp, và ngược lại?
- Ai bảo đảm được chuyện đó cho mầy? Chỉ có mầy ráng mở
to mắt ra mà quan sát, suy nghĩ. Mầy quên câu “xấu đẹp tùy
người đối diện” rồi à? Mầy nên nhớ rằng cái tâm không dễ
gì bị tàn phá, chớ cái đẹp nó như sương như khói vậy.
Chẳng lẽ mầy không hiểu chuyện đó? Mầy cũng phải biết
rằng muốn hiểu được cái tâm của đối tượng thì phải dày
công theo dõi. Cái trò quen nhau trong thời gian ngắn, mê tít
thò lò rồi lo cưới hỏi ngay kẻo trể thường rất dễ chết.
Vả lại ông bà đã dặn “dạy vợ từ thưở ban sơ mới về”. Chờ
đến lúc cổ lai hi thì chẳng còn gì để nói nữa.
- Vậy bây giờ mầy bảo tao phải chịu trận cho tới chết à?
- Bộ mầy tính bỏ bả vô viện dưỡng lão cho rảnh nợ hay sao?
- Đôi khi bực quá tao cũng có ý nghĩ đó. Không thì chính
tao vô...
- Nầy, tao nói cho mầy biết, làm như vậy là bất nhân, bất
nghĩa đó nghe.
- Tại sao vậy?
- Không những bất nhân bất nghĩa mà còn bất xứng nữa. Mầy
đã cưới bả chớ bả có cưới mầy đâu! Nhờ bả mầy mới có
một quãng thời gian sướng đời, hạnh phúc. Những lúc mầy xa
nhà vì chiến cuộc, rồi vì học tập cải tạo, ai lo cho đàn
con? Ai lo thăm nuôi mầy đói khổ trong lao tù? Ai sầu ai khổ
trong cô đơn? Bây giờ mầy định phủi tay quên hết tình nghĩa
ấy ư? Tao nói cho mầy nghe, đây chính là lúc mầy đền ơn đáp
nghĩa người mầy từng yêu thương và cũng từng, cũng vẫn yêu
thương mầy dù nay có chút khó tánh vì tuổi tác. Tao thấy
cũng cần nhắc mầy một chuyện, ngoài tình yêu lứa đôi, mầy
nên “đính kèm” tình thương thân phận làm người, rồi mầy sẽ
hiểu ra mọi việc dễ dàng hơn. Tao có cảm tưởng đã đòi hỏi
mầy quá nhiều. Giờ chỉ cần khuyên mầy ăn ở sao cho đáng
mặt “anh hùng”, thế thôi.
Ngồi nghe hai ông bạn già “già mồm” với
nhau cũng học được vài điều hay hay.
Có những bạn già nghĩ cũng đáng thương. Già rồi nên sinh ra
lẩm cẩm, lại dễ xì nẹt. Có bạn già bực bội vì thế sự
đã làm lỡ mất công danh sự nghiệp, đã đến cuối cuộc đời
mà vẫn trắng tay, rồi sinh ra cáu kỉnh với vợ con, làm gia
đình mất vui vì chuyện không đâu, chỉ vì họ thiếu suy nghĩ
chín chắn. Bá nhân bá tánh, biết sao.
Thật ra thì có mấy ai chịu hiểu rằng hạnh phúc gia đình
trên hết mọi công danh. Trên tiên cảnh, thiên đàng chỉ có
hạnh phúc chớ đâu có công danh. Danh lợi như củ cà-rốt ông
phu xe treo trước đầu lừa. Tội nghiệp con lừa bị lừa ra sức
kéo xe chạy suốt khoảng đường dài, đôi mắt dán chặt vào
mục tiêu, há hốc mồm nước dãi chảy ròng ròng, quên cả thiên
nhiên đẹp quanh mình, đưa lão phu xe tới đích rồi mà mục tiêu
vẫn còn trong gang tấc.
Những kẻ phàm phu tục tử chỉ thấy hạnh phúc khi họ được công danh. Trong gia đình chẳng ai trọng ai, họ chẳng cần. Con cái có lêu lổng cũng mặc, khôn nhờ, dại chịu, họ chỉ biết lo cho bản thân họ, họ chẳng biết trách nhiệm là cái chi, sẵn sàng hạ mình, dù có phải “đội quần”, để được công danh.
Ba mươi năm sống giữa khu bình dân gồm trên
ba mươi sắc dân tứ xứ, quan sát họ quanh năm, đâm ra ngán
ngẩm. Tuyệt đại đa số là dân tha phương cầu thực. Nay có
chút tiền, nên cũng lên xe (cũ) bóng loáng, cũng ăn diện
(áo quần Babou) lòe loẹt như ai, nhưng cung cách thật là
khiếp đảm, ngôn ngữ thì nghe điếc ráy luôn. Để quên đi cái
quá khứ nghèo hèn, họ chọn lấy một cung cách trái ngược:
tự cao, phách lối. Trong môi trường đó làm sao tìm được hai
chữ hạnh phúc? Họa chăng chỉ có những thoả mãn nhứt thời,
thế thôi. Đúng là đời sống của sinh vật. Nghĩ cho cùng
thấy họ thật đáng thương, không được dạy dỗ, học hành họ
làm sao hiểu được gì hơn ngoài manh áo miếng cơm.
Nói vậy chứ ngay cả trong số khoa bảng có lắm kẻ cũng
chẳng khá hơn bao nhiêu, họ sẵn sàng khom lưng, cúi mặt
trước cường địch ngày nào chỉ để được ăn ngon mặc đẹp.
Muốn cho con cái họ sau nầy thoát ra khỏi cảnh sống sinh
vật đó chỉ có cách giúp chúng nó học hành để chúng nó
biết suy nghĩ, nhận ra con đường nào phải theo. Không làm
được chuyện đó thì mầm mống loạn lạc vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng khổ nỗi, khi nhìn bộ giáo dục xứ Phú Lang Sa nầy,
cũng như nhiều xứ văn minh khác, chỉ chú trọng việc đào
tạo chuyên viên, hoàn toàn bỏ ngoài chuyện dạy luân thường,
đạo lý.
Vừa mới đây nhân vụ ông lớn của FMI, có nhà báo hỏi một nhân vật trong chính phủ rằng có nên “đạo đức hóa” chính trị hay không, thì ông ta nhanh nhẩu trả lời: “La morale limite notre liberté”. Luân thường đạo lý giới hạn quyền tự do của chúng ta! Còn gì để nói nữa không? Những chuyện nhiễu nhương, trộm cướp, đốt phá... khắp các khu “nhà lá” từ Paris xuống Marseille là hậu quả tất yếu của một nền giáo dục phi luân lý nhưng nhuộm màu sắc chính trị mị dân.
Ai cũng nhìn thấy và ca ngợi tư cách của
người dân Nhựt trong lần động đất vừa qua, nhưng không một ai
đủ can đảm nghĩ đến chuyện theo gương. Ông kia nói đâu có sai:
“luân thường đạo lý cấm đoán chúng ta không được tự do làm
điều xằng bậy... Không làm được điều xằng bậy đời sẽ mất
vui! Chuyện ông lớn FMI làm bậy ở Nửu Ước, và ở nhiều nơi
trên đất Pháp, chỉ là một trong nhiều chuyện hấp dẫn mà
chưa ai biết hết đó thôi. Vừa mới đây, cựu tổng thống J.
Chirac ra tòa lãnh án 2 năm tù treo về tội “lường gạt, biển
thủ công quỹ, lạm dụng quyền thế” !... Toàn là những chuyện
vô tiền khoáng hậu. Những bậc “cha mẹ dân” của một quốc gia
văn minh như Pháp mà còn ăn ở như vậy thì trách ai khác bây
giờ?
Đời chỉ vui khi ta được quyền làm bậy!
Hình như đó là một phần định nghĩa của
hai chữ tự do ở Châu Âu. Có nhiều chuyện nghĩ tức cười,
cởi truồng trên baãi biển cho mọi người ngắm, dù rằng đôi khi
cặp vú muớp dài tới rún, da nhăn nheo, nhưng đó là tự do,
là văn minh, ở truồng trong rừng rậm là... rừng rú, man ri
mọi rợ!
Có một ông bạn già làm thơ nhớ thời son trẻ, nay đã về
chiều hối hả ôn lại ngày qua, tìm đường vào cõi tịnh,
chuẩn bị cho một ngày “hồn phi phách tán” vào cõi thần
tiên...
Nghe chim hót tang bồng
rũ áo
Chút bụi trần gạt nốt, chân như...
Rừng phong lặng gió như chờ đón
Lạc bước thinh không hết bụi trần.
(Một cỏi hư vô)
Thâm tâm, hảo ý là vậy mà hình thức lại
không phải vậy, vì khi nhìn kỹ những gì bạn già làm thì
phần muốn “siêu thoát” bị phần muốn “ghi danh hậu thế” lấn
át mất. Khi nhìn tấm ảnh của bạn già lại càng thấy bạn
không có vẻ gì muốn lánh mặt cuộc đời nầy cả, trái lại
bạn vẫn còn tràn đầy nhựa sống, rất phong độ, rất hợp
thời trang từ xiêm y đến đầu tóc. Niềm yêu đời vẫn còn
rành rành trên khóe mắt, nụ cười, dù chỉ một bước nữa là
đạt thành bát thập tướng quân. Mục tiêu của người tìm vào
cỏi tịnh có khác chi mấy với mục đích của kẻ tu hành :
thoát tục? Muốn thoát tục phải diệt dục, nếu vẫn cứ dính
dấp với dục, loanh quanh trong những cái tục thì mần răng
mà thoát trần được. Thiên hạ đã chẳng gọi là “trần tục”
hay sao? Khi tâm chưa tịnh thì chưa thể vào thiền. Ví như con
ruồi mắc lưới nhện, càng cựa quậy càng bị siết chặc và
cuối cùng bị “nhền nhện làm thịt”. Được vậy cũng sướng
đời - như lão Trư Bác Gíái xưa kia cả ngày cứ trốn Thầy đi
tìm “ổ nhện”. Nhưng thôi, chuyện muốn thật hay muốn giả vờ
của những nghệ sĩ khó ai biết được, bởi vì mấy ông thi
sĩ, nghệ sĩ nổi hứng bất tử để rồi ngay sau đó chẳng còn
nhớ tới những cuộc tình tục lảng mạn của họ nữa; dù sao
thì mấy ổng cũng để lại cho đời những dòng thơ, tiếng
nhạc hay. Không thành công thoát tục thì cũng thành danh,
chẳng mất mát gì cả. Nói nhỏ mà nghe : thành danh vẫn hơn
thoát tục. Thường tình thì ai cũng muốn vừa thoát tục vừa
để lại chút danh gì với núi sông.
Tuy nhiên, khi đặt mấy vần thơ ướt át vào bối cảnh của một
người vong quốc đã từng có trọng trách trong xã hội, khi
tình dân tộc, nợ nước non vẫn còn mê mê ra đó chờ đợi mọi
người, thì mấy vần thơ của bạn già nghe ra có cái gì lạc
vận, hư vị đăng đắng đúng như cụ Nguyễn Du đã than :
Rằng hay thì thật là
hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Có khi còn bị hiểu là “thi sĩ bất tri vong quốc hận”. Bạn già đã nhịn nhục trở về thăm lại chốn xưa, những chốn xưa, nhưng chỉ để “nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa”, mơ màng những hình ảnh thân thương của thời son trẻ yêu đương mùi mẫn, chỉ để tìm lại những cảm xúc của một thời hạnh phúc đã vuột khỏi tầm tay, tất cả chỉ nhằm tìm cảm hứng cho nguồn thơ để đời...
Chốn xưa tìm lại tàn
hương cũ
Gói ghém thương vào một tứ thơ...
(Hà Nội thành đô)
Bạn già đáng được một lời khen : làm sao lại có thể không thấy được - dù có nhắm mắt - những cảnh đau lòng mà cả dân tộc đang chịu đựng để đũ hứng viết thơ tình? Phải chi bên cạnh những dòng thơ chứa chan tình cảm đó, bạn già cũng có (hay sẽ có, mong thay!) mấy vần cảm xúc trước cảnh khốn cùn của muôn dân để đời sau biết đến thì thật vẹn toàn, hay biết mấy. Hay là bạn già nghĩ rằng như thế sẽ làm “ô nhiểm” tập thơ tình, làm rối rấm tâm tư đang cần yên tỉnh tìm vào cỏi tịnh? Kể cũng lạ ông bạn già của tôi muốn tìm vào thiền, vào tịnh mà cứ tiếp tục quanh quẩn trong cỏi tình thì mần răng mà thấy đường vào cỏi tịnh. Đức Phật đã dạy rồi, tình là bễ khổ, con người chỉ có trầm luân trong đó thôi, chẳng khác nào thuyền nhân bị chìm xuồng giữa Thái Bình dương biết đâu là bến bờ để bơi vào; vả lại một khi đã trầm mình vào đó rồi thì còn hơi sức đâu nữa mà bơi với lội. Tôi cũng rất thích thơ với thẩn, nhưng khi nghĩ đến người xưa, lại nhớ tới quê nhà, thế là hình ảnh của Bác lấn át hết cả, nàng thơ hoảng sợ nắm tay người xưa chạy mất, làm cụt hứng ngay, chẳng còn thơ văn đâu nữa, chỉ còn cái cốt nhà binh của một “cọp biển”: chỉ muốn xé xác lũ tam vô buôn dân bán nước. Bạn bè trách tôi thù dai. Đúng, tôi thù VC rất dai, đầu thai luôn mấy kiếp vẫn cứ thù, không bỏ được. Chúa Phật có vì thế mà phạt tôi vào địa ngục cũng chả sao, đã từng “kinh” qua trường cải tạo rồi, cũng vậy thôi, không ngán. Không làm sao tôi có thể “hòa hợp” được với lũ yêu ma đó; thật ra trong hoàn cảnh hôm nay, nói tới hoà hợp hòa giải với việt cộng thì chỉ có hai hạng người : hạng ngu như bò và hạng ngu hơn bò. Gia đình anh em con cháu đều kẹt lại quê nhà, nhưng tôi nhứt định không về thăm. Bà chị tôi lúc hấp hối thì thào trong điện thoại lời vĩnh biệt và có ý muốn tôi về thăm, tôi cố giữ bình tỉnh trả lời chị rằng tôi rất đau lòng nhưng tôi không làm sao có thể “hạ mình”, nhịn “nhục” xin chúng nó cho phép tôi trở về nhà của tôi thăm chị một lần cuối. Xin chị hiểu cho và miển chấp.
Những chuyện tình cảm không thiếu đề tài phù hợp với tình cảnh của chúng ta, như chuyện “Rừng khóc giữa mùa xuân”, đọc rơi nước mắt và đời sau sẽ thấu hiểu tình cảnh mà cả dân tộc đã hứng chịu dưới sự tàn bạo dã man của cộng phỉ Bắc Việt. Ba thập niên hay ba thế kỷ nào phải là thời gian đũ để chúng ta cho mọi tội lỗi của cộng phỉ, của những kẻ phản bội... đi vào quá khứ để yên tâm an hưởng, phủi tay rảnh nợ nước non và để yên cho những tên phản bội bán nước mỉm cười nơi chín suối? Nghĩa tử nghĩa tận chỉ áp dụng vào trường hợp người dân thường lamda. Đối với những kẻ đã “ghi danh sử sách” thì không có nghĩa tận được, ngàn đời sau thế gian vẫn nhắc nhở, phán xét họ. Bảo rằng nên tôn trọng một xác chết không còn biện bạch được là... dốt, là ngụy biện. Ngày nào lũ buôn dân bán nước còn đó, dân tộc còn thống khổ, ngày đó người “trí thức” vẫn còn món nợ nặng nề trên hai vai không thể chối bỏ, lo thân. Tôi chẳng trách bạn già viết thơ tình cảm riêng tư, mà trách bạn già sao chỉ viết có thế. Ngòi bút cũng là một vũ khí lợi hại để đánh đổ chế độ phi nhân. Đâu phải ai cầm bút là cũng viết lách được ; những ai có biệt tài mà không có tí trách nhiệm thì thật là phí biết bao. Trên trận tuyến hải ngoại chống cộng sản Bắc Việt, những trí thức, những nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo... là những chiến sĩ hàng đầu duy nhứt có khả năng đánh những đòn chí tử vào yếu huyệt của cường địch dù nghìn trùng xa cách, nở nào lại chỉ có làm thơ ca ngợi hay luyến tiếc những cuộc tình riêng tư không thôi sao? Ngoài trọng trách chứng tỏ cho hậu thế thấy rằng văn học lưu vong vẫn hơn xa văn chương của lũ cộng phỉ dốt nát,dối trá trong nước, trí thức, nghệ sĩ hải ngoại còn phải ghi lại những mẫu chuyện nghịch lý, những mảnh đời tan vở đau thương vì bọn cộng nô Bắc Việt như là những chứng tích để hậu thế biết rõ tội ác của chúng và hiểu thế nào là cộng sản để không bao giờ tái phạm lỗi lầm hôm nay. Ghi lại những chiến tích oai hùng của quân dân miền Nam đã từng đánh đuổi lũ “chó cắn trộm” cộng nô tả tơi manh giáp trong ngày Tết Mậu Thân và Mùa hè đỏ lửa để hậu thế không bị tuyên truyền đầu độc của bọn phản chiến rằng chỉ có “Mỹ đánh giặc” ở Việt nam...
Nói vậy chứ cũng còn có những kẻ đã
từng ở trong hàng ngủ chúng ta, từng bị thân bại danh liệt,
tàn gia bại sản, nay thoát được ra ngoài tưởng đã hồi sinh
sáng mắt; thế nhưng sau mấy thập niên ăn no ngủ kỹ một số
bổng dưng nổi hứng lớn tiếng ồn ào rằng họ biết ơn cộng
phỉ có công thống nhứt đất nước (Trời đất!? Phải kêu trời
mới được), hay rêu rao hòa hợp với lũ cướp của giết người!
Lại còn lớn tiếng chê bai thiên hạ chống cộng “thấp” chỉ
vì những người nầy đã lấy lá cờ máu của cộng phỉ bịt
khu, che mông ! Vậy là khi muốn chống cộng “ cao” phải đội
lá cờ máu trên đầu sau đó muốn chống gì mặc tình? Tôi
chẳng biết có cách chống cộng nào gọi là “cao”? Có thể
như thế nầy: các nhà trí thức đó họ chỉ chống cộng bằng
ngòi bút, bằng mồm nhưng trong cung cách “cao”, nghĩa là chỉ
nói xa nói gần, né tránh trực tiếp kể tội ác đích danh
lũ buôn dân bán nước. Họ chỉ trích nhẹ nhàng đến độ người
bị chỉ trích cũng không biết mình bị xài xể; và thiên hạ
cũng chẳng biết là họ chống cộng, phải chờ họ giải thích
rằng khi họ viết thế nầy, nói thế kia là họ có “ẩn ý”
chống cộng. Hay là họ cung kính dâng kiến nghị lên giặc
cộng yêu cầu chúng tự sát để cho dân sống? Vậy là vui vẻ
cả đôi bên, khi cần về nước du hí người chống cộng “cao”
không sợ bị các đồng chí làm khó dễ. Họ chỉ có bổn phận
không theo giặc cộng, chứ có ai buộc họ phải chống cộng
đâu. Họ cứ yên tâm viết văn, làm thơ, nghiên cứu bất cứ gì
họ thich. Chuyện gì phải mặc cảm. Nếu có mặc cảm chăng là
vì trước 75 họ cũng đã từng chống cộng “cao” như thế : họ
tìm đũ mọi cách để phục vụ ở hậu phương, nếu “trốn lính”
được càng hay. Thế mới biết cái ngu si, hèn hạ của con
người nó vô biên như vũ trụ. Thật ra thì dân trí của phe ta,
dù ở cấp nào đi chăng nữa, cũng chưa cao. Dù biết thượng
cấp, anh em phe ta làm bậy, nhưng cũng cứ đứng sau lưng ủng
hộ! Phe ta xem tự ái to hơn Thái sơn nhiều. Trái lại hai
tiếng phục thiện nhỏ tí xíu. Vả lại vào thời đại nguyên
tử, lằn ranh thiện-ác đã mờ mịt: gian ác như Hồ tặc vẫn
có lắm kẻ tôn thờ, Thiên Chúa vẫn bị người xỉ vã...
Từ kế kỷ 19, 20 những Marx, Engels, Lénine, Martov, Troski,
Plekhanov... đều bị lưu đày hay di tản ra hải ngoại, nhưng họ
đã không ngớt dùng ngòi bút và tâm trí để khơi động cuộc
cách mạng làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Marx chẳng
biết làm thơ như Sosso (tục danh của Staline, một bút hiệu
thường dùng trong nhiều bút hiệu của Djougachvili), chỉ biết
triết lý và cách mạng ; trong lúc Engels vừa là triết gia
vừa là một nhà tư bản chủ nhân một xưởng dệt đồ sộ trên
đất Anh. Nhờ giàu có nên Engels gần như cấp dưởng Marx và
vợ con suốt đời để cuối cùng cả hai gầy dựng nên thuyết
mát-xít làm phương châm chỉ đường cho giới công nhân thế
giới làm loạn. Đầu năm 1848, thợ thuyền nổi dậy ở Paris;
vua Louis Philippe phải từ bỏ ngai vàng. Phe làm loạn buộc
chính phủ phải bỏ hai màu xanh trắng của quốc kỳ, chỉ giữ
lại một màu đỏ, nhưng ngoại trưởng Lamartine dứt khoát không
chấp nhận lá cờ màu máu, ông bảo đó là cờ của đảng
phái, không thể là quốc kỳ. Nhà thi sĩ lại cũng đã phán
một câu rằng “vô sản là tiếng nguyền rủa vô luân, hạ cấp,
gớm ghiếc cần được xóa bỏ khỏi ngôn ngữ, và trong xã hội
cũng phải dần dần làm cho không còn có một người vô sản
nào nữa”. Engels tức mình gọi Lamartine là “tên phản tặc văn
hay”. Engels là cha đẻ của chủ trương “đấu tranh giai cấp”,
tuy là đại tư bản nhưng mang trong người dòng máu cách
mạng...vô sản! Cái mới lạ. Phần Staline, y có một giọng
hát như ca sĩ, có biệt tài làm thơ như thi sĩ, chỉ với hai
tài đó y phải là một nghệ nhân; nhưng trong y, cái bản chất
tàn ác lạ thường hoàn toàn lấn át bản chất của người
nghệ sĩ và Staline đã trở thành một tên đồ tể khét tiếng
: mới 18 tuổi đã rời bỏ chủng viện, nơi mẹ ông gởi gấm để
học hành thành cố đạo, và tổ chức đánh cướp ngân hàng,
sát hại binh sĩ, lấy tiền để làm... cách mạng. Đã sinh ra
tên đồ tể Staline, trời lại sinh thêm Lénine với bản chất
thô bạo cũng khác thường, và cặp bài trùng đó đã gây nên
bao nhiêu tan tóc cho dân Nga và nhân loại. Lénine, Staline và
các đồng chí ở Nga nổi lên lật đổ Nga hoàng trong một cuộc
cách mạng đầy máu lữa lan tràn trên khắp thế gian. Cũng
chỉ vì Nicolas II mù tịt về tình trạng của xã hội, của
dân Nga nên đã phạm một lỗi lầm tài trời vào ngày chủ
nhật 9/1/1905 khi đông đảo dân Nga kéo nhau đến trình “thỉnh
nguyện thư” yêu cầu Nga hoàng cải tổ chính trị trong tinh
thần “hòa hợp hoà giải” không một mải may nào có ý làm
loạn. Thế nhưng Nga hoàng, vì mặc cảm do nhiều cuộc đình
công rối ren trước đó, lại ra lịnh cho binh lính “giải tán
biểu tình” bằng súng đạn, gây nên một cuộc thảm sát có
đến hàng chục thương vong! Chỉ vài tháng sau,5/1905, giới
thợ thuyền thành lập tổ chức mang tên sô viết đầu tiên.
Trong sô viết của thành phố Pétersbourg, Troski và Nosar cho
phát hành tờ tuần san Izvestia sovieta.(Tờ báo nầy vẫn còn
sống sau khi Liên bang sô-viết sụp đổ). Thế mới biết trí
thức bao giờ cũng dùng ngòi bút để mở đường đấu tranh. Khi
Troski bị bắt, thì một nhóm khác với Gorki, Bogdanov, Minski
cho ra một tờ báo mà chủ bút là bà vợ thứ hai của Gorki,
kịch sĩ Maria Andreeva. Đến cuối năm đó Lénine mới trở về
Pétersbourg và lập tức lăn xả vào viết báo liên tục với
những tờ Luồng Sóng (Volna), Tiếng vang (Ekho), Vô sản
(Proletarii)... Chính Lénine đã đặt mục tiêu sau cùng là
chuyên chính vô sản, không có một đồng chí nào đũ sức lèo
lái y ra khỏi 4 tiếng đó, mục tiêu đó. Chỉ với mấy chữ
vàng đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của vài ba
“tư tưởng gia” từ hai thế kỷ trước mà đến nay dân Việt vẫn
còn hứng chịu hậu quả khóc liệt chưa biết đến bao giờ mới
hết. Trí thức không thể thiếu vắng trong bất cứ một cuộc
đấu tranh nào, dù gây họa hay tạo phúc cho muôn dân. Nhưng
không phải trí thức nào cũng có khả năng làm được việc
đó; dân ta còn quá chậm tiến, nhút nhát, cầu an, nhứt là
sợ sệt... Người dân bắc Phi đã không sợ, chấp nhận hy sinh,
cùng nhau hàng trăm ngàn ngày ngày, tháng tháng xuống đường
cho đến khi nào bạo quyền phải lui bước mới thôi. Dân ta có
lẻ không bao giờ dám xuống đường như vậy, nên chuyện đấu
tranh giai cấp của Engels và chế độ vô sản nhập cản của
Lénine sẽ có triển vọng tồn tại lâu dài trên quê hương...
Nhưng thôi, chuyện nước non cũng như chuyện văn thơ, không phải
ai cũng biết nghĩ, biết làm. Mỗi người có đống góp một
chút gì đó là quí lắm rồi. Từng tuổi bát thập mà còn
viết lách như ông bạn già của tôi đã là đáng khen. Thường
tình khi vào lứa “cổ lai hi”, nếu không ra sức già cố quơ
quào hưởng thụ một “cú đẹt”, thì đa số chỉ còn biết chăm
sóc lấy thân già, của mình và của người bạn đường từ nửa
thế kỷ trước. Lẩn quẩn có bấy nhiêu đó việc mà có khi
còn làm chưa ổn, mong gì chuyện lớn. Mỗi sáng tỉnh giấc,
chống tay ngồi dậy, bước xuống giườn đi tới nhà tiêu được
và “ể” được là mừng cho ngày đó máy còn tốt. Chưa bị
Alzheimer hay “đột quị” nằm liệt giườn, xụi lơ cán cuốc là
vui lắm rồi.
Đông Vân Nguyễn văn Dõng.
Mùa hè 2011.
471 của tôi, Đại đội C của tôi
Phương Nam : Ánh sao nơi cuối Trời
Chiến Đoàn A TQLC và trận Đức Cơ
Danh sách cha con, anh em ruột cùng phục vụ trong binh chủng TQLCVN
Đặc khu Rừng Sát… và những ngày sau cùng
ĐĐ4/TĐ2/TQLC Tiêu diệt CX thuộc TĐ Tăng 202
Dấu chân người lính Pháo Thủ MX
Một thời để yêu, một thời để nhớ
Người lính Mũ Xanh và Bé dấu yêu Trưng Vương
Trung Đội 2/TĐ7 & những ngày cuối cùng
471 của tôi, Đại đội Viễn Thám C của tôi
Pháo Đội A/TQLC Chiến Trận Hè 1972
Tàn bạo, lừa bịp , khoác lác là bản chất CSVN
Tiểu Đoàn 2 và những biến cố chính trị
Tiểu Đoàn 3, cuộc hành quân Toàn Thắng 1969
Trại Thanh Cầm và dòng sông Mã
Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLC