Bằng-Phong
Gia Đẳng, Quảng Trị ngày 7/3/1975.
Hôm nay là ngày bàn giao chức vụ Trung Đội Trưởng Quân y TĐ.9/TQLC giữa tôi và người mới đến thay thế là BS Thi. Khi chúng tôi bước ra khỏi hầm trú ẩn th́ đă thấy Trung Sĩ Khương, y tá trưởng tiểu đoàn cùng 21 quân y tá xếp một hàng ngang, súng M16 trên vai, nón sắt áo giáp, mặt nạ chống hơi độc, túi cứu thương, quân phục chỉnh tề sẵn sàng chờ lệnh.
Có lẽ do t́nh thầy tṛ
sắp chia tay nhau nên khi thoáng trông thấy Khương là bao nhiêu kỷ
niệm cũ hiện ra làm tôi cảm động, nhớ về những gian nan từng trải
qua cùng anh em. Có những lần tiểu đoàn đụng nặng, cả trung đội Quân
Y phải thức suốt đêm để cứu chữa thương binh, thầy tṛ chúng tôi tận
dụng tất cả những ǵ đă học hỏi được để cấp cứu, cố mang họ ra khỏi
bàn tay của tử thần rồi sáng sớm hôm sau chúng tôi bồn chồn lo lắng
chờ đợi trực thăng tải thương đến. Có lần Khương đă nhanh tay giúp
tôi cứu một thương binh mà tôi không bao giờ quên:
“Anh TQLC phía trước,
cách tôi chừng 15m, bị trúng đạn đang lăn lộn, tôi ngập ngừng ḅ về
phía nạn nhân th́ nhiều tiếng súng tiếp theo khiến tôi điếng hồn
toát mồ hôi toan quay trở lại, th́ hai ba TQLC khác từ phía sau ḅ
vượt qua tôi, họ loay hoay chưa biết làm ǵ để cứu đồng đội bị
thương. Tôi cảm thấy hổ thẹn v́ sự nhút nhát của ḿnh nên quyết định
tiếp tục ḅ nhanh đến bên các anh. Anh thương binh đang thở đứt
quăng, máu miệng và mũi đang phun ra kèm theo vài cái răng. Viên đạn
trúng má phải xuyên qua má trái, máu chảy vào trong miệng khiến anh
không thở được, tôi biết phải làm ǵ thật nhanh để cứu sống anh, tôi
với tay lên túi cứu thương đang đeo trên vai để lấy dao mổ th́
..thất kinh, túi cứu thương đă bị bắn nát! Đang bối rối th́ một bàn
tay vỗ vai, tôi quay đầu lại th́ y tá Khương đưa ra con dao mổ, tôi
vội giật con dao trong tay Khương và nói nhanh: “ống thở”. Tay tôi
sờ cổ nạn nhân để t́m vị trí mổ, khi dao mổ vừa rút ra khỏi cổ anh
lính th́ Khương nhét ngay cái ống thở vào vết mổ, cả tôi và Khương
cùng mừng nh́n sắc mặt người thương binh đang đổi từ tím sang hồng”.
Tiếng hô “NGHIÊM” của
Trung Sĩ Khương làm tôi trở về hiện tại, tôi cho anh em thao diễn
nghỉ, tôi đă định nói thật nhiều về trách nhiệm và bổn phận của
người y tá ngoài mặt trận, nhưng khi nh́n những khuôn mặt rắn rỏi
thân yêu, những cánh tay lực lưỡng xâm hai chữ “Sát Cộng”, ḷng tôi
bỗng bùi ngùi xúc động. Đă hai năm rồi chúng tôi chia ngọt xẻ bùi
cùng cay đắng với nhau, nay là lúc tôi ra đi để nhường chỗ cho người
y sỹ khác, sự chia tay này không dễ dàng như tôi tưởng. Tôi nghẹn
ngào căn dặn anh em như một người anh cả trong gia đ́nh:
_ “Bây giờ t́nh thế rất
nghiêm trọng, Cộng quân có thể mở những trận đánh quyết định bất cứ
lúc nào, tôi mong anh em đoàn kết bảo vệ lẫn nhau và giúp đỡ BS Thi
hoàn thành nhiệm vụ”.
Sau khi bắt tay và an ủi từng người đệ tử cũ và chào ông bác sĩ mới, tôi lên ban 3 tiểu đoàn để chào từ giă các sĩ quan tham mưu và gọi máy C25 để từ biệt bốn ông đại đội trưởng. Lại một màn giă từ đầy cảm động, tôi đă sống với TĐ.9/TQLC ngót hai năm, t́nh chiến hữu đă đổi thành t́nh huynh đệ, tôi không muốn rời khỏi tiểu đoàn trong t́nh thế nóng bỏng này. Bỗng một quyết định đến với tôi mà cho đến giờ phút này tôi cũng không biết đúng hay sai, lư doTĐ.9/TQLC bấy giờ đang trực thuộc LĐ.258/TQLC đóng tại Mỹ Thủy Quảng Trị, nếu tôi về Đại Đội Quân Y/LĐ258 th́ tôi vẫn có thể săn sóc thương binh của TĐ.9 khi trận chiến xảy ra, tôi liền mượn máy Tiểu Đoàn 9 gọi cho Tiểu Đoàn Quân Y của SĐ/TQLC tại Hương Điền để tŕnh bày quyết định này. May thay TĐT Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế hiểu được nhu cầu cần thiết trên tuyến đầu nên chấp thuận tăng phái tôi cho ĐĐ QY/LĐ 258 trong ṿng hai tuần lễ.
Con đường từ băi biển Gia
Đẳng đến băi biển Mỹ Thủy là một chi nhánh của Hương Lộ 555, đây là
một HL tuyệt đẹp, một bên là cát trắng biển xanh bao la, một bên là
những đồi dương liễu nên thơ, và hương lộ này cũng đă đi vào văn học
lịch sử thế giới bởi nhà văn thân Cộng người Pháp quốc tịch Mỹ tên
Bernard Fall.
Năm 1953 Bernard Fall đă
đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp hành quân trên HL.555 và đă chứng
kiến đoàn quân này bị Trung Đoàn 95 Việt Minh đánh bại. Về nước,
Bernard viết cuốn sách “Street Without Joy” trong đó anh ta đă thần
thánh hóa TĐ.95/VM, đây là một cuốn sách rất nổi tiếng, được dịch ra
nhiếu thứ tiếng và đă biến Bernard thành một đại văn hào.
Năm 1966, Bernard Fall trở lại Việt Nam để đi theo cuộc hành quân
của TĐ.1 và TĐ.2/TQLC, đổ bộ tại Gia Đẳng, tiến quân đọc theo HL.555
lên phía Bắc, dồn Trung Đoàn 95 VC (Tr.Đoàn 95 VM dưới thời VNCH
được gọi là Tr.đoàn 95 VC) tới bờ sông Vĩnh Định, Bích La Thôn và
tiêu diệt trung đoàn này dưới con mắt đau buồn của Bernard.
Sau khi chứng kiến TrĐ.95VC bị hai Tiểu Đoàn 1&2/TQLC d́m xuống ḷng
sông Vĩnh Định, Bernard Fall đă đi theo quân đội Mỹ hành quân trên
HL555, nhưng quân đội Mỹ đă không bảo vệ anh như TQLC/VN mà anh ta
đă không tiếc lời nguyền rủa và rồi Bernard đă đạp phải ḿn bẫy của
TRĐ.95/VC c̣n sót lại và chết trên “Street Without Joy” của anh ta!
Nói đến HL555 mà không nói về Bích La Thôn th́ quả là một sự thiếu sót, đây là một thôn làng xinh đẹp nằm bên bờ ngă ba sông Vĩnh Định, một con sông đẹp không kém ǵ sông Hương, nơi đây có một chiếc cầu thơ mộng mà dân địa phương gọi là cầu Ba-Bến. Tục truyền rằng cách nay hơn 200 năm, có một vị chúa Nguyễn đầy ḷng nhân từ, trước khi qua đời ông đă ra lệnh thả tất cả các cung nữ của ông về Bích La Thôn để họ làm lại cuộc đời, không biết v́ ảnh hưởng di truyền hay v́ phong thủy hữu t́nh mà những người con gái của Bích La Thôn đều có một sắc đẹp lạ lùng, khác hẳn với các giai nhân những vùng khác của đất nước, ở đây họ sống mộc mạc nhưng vẫn giữ những tập tục của Hoàng Cung Huế. Bởi vậy tại miền Trung có câu tục ngữ: “Cau Vỹ Dạ, gái Bích La”. Đang mải nghĩ về anh văn sĩ người Pháp ngây thơ và lăng mạng, về những người đẹp Bích La Thôn th́ xe đă đến Mỹ Thủy và rẽ vào BCH/LĐ.258/TQLC.
Mỹ Thủy, Quảng Trị .. Ngày 08/3/1975 đến 18/319/1975.
Đèo Phước Tường, Huế .. Ngày 18/3/1975 đến 25/3/1975.
Đại đội QY/LĐ.258/TQLC có 3 y sĩ, ông ĐĐT là một người sống khắc khổ và chịu đựng, hai người y sĩ phụ tá là BS Nhi, anh là y sĩ bệnh viện Lê Hữu Sanh, v́ phạm kỷ luật nên bị đày ra LĐ 258, sau 30/4/75 anh được giữ chức vụ quan trọng trong ngành y tế tại Saigon, v́ anh có thân nhân làm lớn trong MTGPMN. Người kia là BS Duy, anh là ngôi sao đang lên của Quân Y TQLC, khi c̣n lội theo tiểu đoàn anh đă được gắn ADBT và được báo Sóng Thần của SĐ/TQLC khen, nhưng không ngờ anh lại là một tên t́nh báo của VC, và gần đây anh đă giải ngũ với cấp bậc trung tá t́nh báo CSBV. V́ đại đội quân y đă đủ y sĩ nên tôi chỉ làm những công việc lặt vặt coi như để chờ ..!
Ngày 11/3/1975, đài BBC loan tin Ban-Mê-Thuột bị thất thủ, tôi vội
lên Ban Ba Lữ Đoàn để biết thêm tin tức th́ gặp Trung Tá Huỳnh Văn
Lượm, một vị TĐT cũ của tôi và lúc này tôi mới biết ông đang là
LĐP/LĐ.258, (LĐTr. là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo), chúng tôi vui mừng
chào hỏi nhau rồi anh Lượm mời tôi ăn cơm tối cùng với Đại Úy Quận
Ban 2 LĐ. Trong bữa cơm anh buồn bực nói:
_ “Cái “chiến lược” đem lực lượng tổng trừ bị căng ra để giữ đất
không khá được, trong khi VC chúng tụ quân đánh ta chỗ này chỗ khác.
Đất mất mà quân c̣n th́ ta chiếm lại mấy hồi, c̣n quân mất th́ làm
sao giữ đất?”.
Tôi hỏi ông liệu có một trận đánh quyết định tại QKI th́ ông trầm
ngâm:
_ “Quân CSBV bây giờ không mạnh bằng năm 1972, v́ những quân tinh
nhuệ của chúng đă bị ta giết gần hết rồi, bây giờ chúng thay thế
bằng đám thanh niên mới thiếu kinh nghiệm tác chiến, chúng biết
QĐ.I/QKI có 4 sư đoàn thiện chiến, vũ khí đạn được tích trữ đầy đủ,
dù có đánh nhau một hai năm cũng chưa hết, v́ thế chúng sẽ không mở
một trận đánh quyết định tại QKI mà chỉ bám sát, đợi lúc ta rút quân
có sơ hở th́ mới đánh”.
Sự tiên đoán của Trung Tá Lữ Đoàn Phó LĐ.258/TQLC khá chính xác, v́
cho tới ngày 29/3/1973 khi QĐ.I rút khỏi Đà Nẵng, đă không có một
trận đánh lớn nào xẩy ra.
Ngày 16/3/1975 Lữ Đoàn 369/TQLC, trong đó có TĐ.9 rời Quảng Trị di
chuyển về Đại Lộc, Thượng Đức để thay thế LĐ.3 Nhẩy Dù. Tôi chưa kịp
xin đổi về TĐQY th́ ngày 18/3/1975, LĐ.258/TQLC cũng được lệnh di
chuyển từ Mỹ Thủy đến đèo Phước Tường để thay thế cho LĐ.2 ND, thế
là tôi có mặt trên đèo và đă nghe đă thấy tất cả những ǵ xẩy ra sau
đó trên QL1, v́ đèo Phước Tường nằm trên QL1, phía Nam Huế và phía
Bắc đèo Hải Vân.
Theo lệnh hành quân th́ LĐ.258/TQLC có nhiệm vụ:
-Bảo vệ trục giao thông trên QL1 để LĐ.147/TQLC, SĐ.1/BB, LĐ.14BĐQ,
Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, các TĐ Pháo Binh và các đơn vị khác của QĐ.I
Tiền Phương đang chiến đấu tại Quảng Trị, Huế rút về Đà Nẵng.
- Làm lực lượng ngăn cản các đơn vị truy kích của CSBV sau khi các
đơn vị kể trên rút an toàn về Đà Nẵng.
- Cùng bảo vệ QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân c̣n có Liên Đoàn 15/BĐQ từ
phái Bắc đèo Phước Tường đến phía Nam Huế và LĐ 468/TQLC từ phía Nam
sông Truồi đến đèo Hải Vân
Từ ngày 19/3/1975 đến ngày 23/3/1975, dân chúng Quảng Trị, Huế đổ về Đà Nẵng, họ dùng đủ mọi phương tiện, từ xe hơi, xe ba bánh, xe đạp và cả đi bộ nữa, ḍng người kinh hoàng sợ VC đă chen chúc nhau trên QL1 ngày cũng như đêm, nhiều người quá mệt mỏi ngă gục trên đường liền bị xe sau cán qua! QĐ.I đă không làm bất cứ một cái ǵ để giúp đỡ họ, chẳng thấy một ông lớn nào lên đài phát thanh hay bay trên trời để hướng dẫn hoặc trấn an dân chúng! Dân đi th́ đặc công, du kích VC cũng giả dạng tỵ nạn đi theo, không thấy QĐ.I có biện pháp nào để thanh lọc chúng. Tôi tự hỏi đă có bao nhiêu tiểu đoàn đặc công VC lọt vào Đà Nẵng một cách hợp pháp?
Ngày 23/3/75, ḍng người tỵ nạn đột nhiên chấm dứt, một số người bị
thương v́ đạn AK của VC được mang đến cho chúng tôi điều trị. Theo
lời kể lại của các nạn nhân th́ một toán VC đă lập một cái chốt gần
cầu Nong, xả súng bắn vào đoàn người di tản để ngăn chặn lưu thông
trên đoạn đường này.
Tối 23/3/75, đài phát thanh VC loan báo chúng đă “diệt gọn” LĐ.258
và LĐ15 BDQ và chúng đang kiểm soát QL1 từ đèo Phước Tường cho đến
Huế (?)
Sáng ngày 24/3/75, tôi đi theo xe cứu thương để cấp cứu một anh
Tr/Sĩ BĐQ, anh bị trúng đạn vào vai phải, gặp tôi anh nói:
_ “Thiệt tức muốn chết được ông thầy, tôi canh me tụi nó từ chiều
hôm qua, ai ngờ nó làm tôi trước, v́ nó có súng gắn ống nhắm, nếu
tôi có cây 75 ly th́ hốt trọn ổ tụi nó rồi”.
Tôi an ủi rồi băng bó cho anh thương binh xong rồi sai y tá đưa anh
về đèo Phước Tường để khâu lại vết thương. Anh Tr/Uy BĐQ có vẻ lo
lắng cho đệ tử nhưng tôi bảo anh an tâm, v́ vết thương của tr/sĩ
không nguy hiểm, nhân tiện tôi hỏi anh về t́nh h́nh tại cầu Nong th́
anh cho biết:
“Vẫn yên tĩnh, ngoại trừ cái chốt bắn sẻ cản trở lưu thông, chặn
đồng bào di tản, tôi đang chờ trung đội súng nặng đến tăng cường để
dẹp cái chốt này.”
Đoạn QL1 từ cầu Nong đến chân đèo Hải Vân là con đường huyết mạch và
duy nhất để tiếp tế tiếp viện và rút quân cho các đơn vị phía Bắc,
mất đoạn đường này có nghĩa là các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng
Trị và Huế sẽ bị cô lập. Tối hôm trước, 23/3/75 VC đă loan tin láo
khoét là chiếm được đoạn đường này với mục đích làm hoang mang tinh
thần chiến đấu của các đơn vị này, vậy mà QĐ.I đă không cải chính để
trấn an tinh thần binh sĩ!
Từ ngày 19/3/75, quân CSBV đă bám sát LĐ.258, tiền sát viên của
chúng trà trộn vào dân tỵ nạn đến gần quân ta nên chúng điều chỉnh
pháo binh rất chính xác, đă có vài trái 130 ly rơi vào sân trực
thăng phía sau ĐĐ/QY. Lữ đoàn cho mở những cuộc hành quân đẩy lui
địch về phía Tây cách QL1 ba, bốn km. ĐĐ/QY Lữ Đoàn dựng một cái lều
lớn trên băi trực thăng để làm trạm cứu thương, tôi được chỉ định
làm việc tại đây. Trưa ngày 24/3/75, địch bắt đầu pháo nhiều hơn,
chúng pháo từ hai ba vị trí khác nhau ở phía Tây, đạn rơi chung
quanh vị trí Lữ Đoàn rồi kéo từ từ lại gần, cường độ khoảng ba bốn
trái một phút. Chiều 24/3/75 tôi nghe nhiều tiếng súng lớn nhỏ từ
phía cầu Nong dội về, tôi biết BĐQ đang tấn công nhổ cái chốt bắn
sẻ. Một lúc sau y tá mang về cho tôi 2 thương binh BĐQ, cả 2 anh đều
bị bắn bên vai phải (có lẽ tên bắn sẻ là tay mơ, quên điều chỉnh độ
dạt của khẩu súng nên hắn nhắm đầu mà cả 3 nạn nhân lại bị trúng vai
phải) và các anh cho biết tên bắn sẻ đă bị hạ, bọn c̣n lại bỏ chạy
vào rừng phía Tây, BĐQ đă nhổ xong cái chốt trên cầu Nong, địch
không c̣n, như vậy QL1 đă an toàn trở lại từ chiều ngày 24/3/75.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 24/3/75, thương binh từ mọi nơi được mang về
trạm cứu thương Lữ Đoàn càng lúc càng nhiều. Có đủ loại thương tích,
những vết thương nhẹ th́ lấy miểng đạn ra rồi khâu vá tại chỗ, nặng
th́ phải làm những phẫu thuật cấp cứu đặc biệt. Có nhiều vết thương
đứt động mạch, khi mở băng ra th́ máu phun có ṿi lên mặt chúng tôi,
nhưng đó là chuyện nhỏ, chúng tôi phải cột động mạch và tĩnh mạch
thật nhanh, nếu chậm trễ th́ thương binh mất nhiều máu nguy hiểm.
V́ lều cứu thương ở trên một vị trí trống trải lại không có bao cát
che chắn xung quanh nên tôi đành cho đặt cáng thương binh dưới đất
và chúng tôi cấp cứu họ trong tư thế ngồi.
Khi màn đêm xuống, v́ tránh để lộ vị trí nên chúng tôi phải làm việc
trong ánh đèn bấm để chích thuốc, truyền nước biển, khâu vá vết
thương, điền phiếu tản thương cho gần 50 thương binh gồm TQLC và
BĐQ. Khoảng 8 giờ tối, địch bắt đầu tấn công bằng bộ binh vào ṿng
đai pḥng thủ của LĐ, từng tràng M16 xen với tiếng AK47, tiếng lựu
đạn, B40, M72, tiếng súng cối, pháo binh đi và đến tạo nên một điệp
khúc của tử thần, vài trái 130 ly chạm nổ rơi ngay sân trực thăng,
cách lều cứu thương hơn hai chục thước, miểng đạn xuyên qua vải lều,
bay trên đầu chúng tôi, cũng may là chúng tôi ngồi làm việc nên
không ai bị thương.
Lúc 2 giờ sáng 25/3/1975, tôi nhận được một thương binh là thiếu úy
TQLC khá ĺ, anh bị bắn vào vai trái, sau khi y tá lau sạch, tôi
chích thuốc tê vào xung quanh vết thương rồi dùng kim chọc vào theo
chiều sâu vết thương, tôi định được vị trí của miểng đạn, v́ biết
chung quanh miểng đạn không có mạch máu và dây thần kinh nào quan
trọng nên tôi dùng kẹp mổ thọc vào vết thương để kẹp lấy mảnh đạn,
với sự giúp đỡ của y tá, tôi dùng dao mổ cắt những sợi thịt vướng
vào cạnh của miểng đạn rồi lựa thế kéo nó ra. Mảnh đạn lớn hơn đốt
ngón tay, tôi gói cẩn thận tặng lại anh để sau này “thiếu úy tặng
cho người yêu” (lưu ư: đây chỉ là một lối mổ dă chiến ngoài mặt
trận, các bạn sinh viên y khoa nếu có đọc đoạn này xin đừng làm như
tôi).
Khi tôi khâu lại vết mổ cho thiếu úy vừa xong, anh ta không tỏ ra
đau đớn hay mệt nhọc ǵ mà hỏi ngay:
“Bác sĩ cho tôi trở lại đơn vị được chưa?”
_ “Cần phải dưỡng thương cho vết mổ kín miệng, ông về đơn vị rồi
nhiễm trùng, xưng mủ, đứt chỉ khâu lúc đó ông quay trở lại càng vất
vả cho chúng tôi thêm. Nhưng sao thiếu úy lại mong trở lại chiến đấu
ngay vậy?”
Anh vui miệng kể cho tôi nghe chi tiết của trận đánh rồi kết luận:
_ “Quân chính quy CSBV bây giờ không thiện chiến như năm 1972, bọn
này ngờ nghệch chỉ biết dàn hàng ngang xông tới như lũ say thuốc nên
lính ḿnh quạt chúng thật đă tay, khi thấy vài đồng bọn ngă xuống là
chúng đi thụt lùi. Những dịp này mà không có mặt ở đơn vị để đ̣i nợ
chúng th́ thật uổng”.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 25/3/75, địch quân bị đẩy lui và bỏ chạy về
phía Tây QL1, pháo binh địch ngưng bắn, nhưng pháo ta vẫn bắn truy
đuổi. Khoảng 4 giờ sáng 25/3/1975, Tr/Tá Lượm đến thăm trạm cứu
thương, ông hài ḷng khi thấy tất cả thương binh đều đă được cứu
chữa và ở trong t́nh trạng ổn định để sẵn sàng tản thương, sau đó
ông kéo rôi ra khỏi lều cứu thương và nói nhỏ:
“Ḿnh sẽ bỏ nơi đây để rút về Đà Nẵng trong ṿng một giờ nữa”!
Tôi kinh ngạc hỏi:
“Lệnh của ai vậy thưa trung tá?”.
Ông nói:
_ “Đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh và ông cho lệnh Thiếu
Tướng Bùi Thế Lân phải thi hành v́ TQLC ḿnh đang tăng phái cho
QĐ.I”.
Tôi thắc mắc:
“Vậy th́ số phận Lữ Đoàn 147/TQLC và các đơn vị ở phía Bắc sẽ ra
sao một khi ḿnh bỏ vị trí trọng yếu này?”.
Trung Tá Lượm thở dài như không muốn nghe tôi hỏi, rồi ông buồn rầu
nói:
_ “Giờ này tôi không thể cho anh biết được, tôi đâu muốn bỏ chỗ này,
ḿnh dư sức giữ nó thêm vài tuần nữa mà, nhưng lệnh QĐ th́ ḿnh phải
thi hành”.
Chợt thấy bác sĩ Duy bước ra khỏi hầm trú ẩn, Tr/Tá Lượm nói:
_ “Đại Úy Quận Ban 2 LĐ vừa cho tôi biết vài điều về ông BS mới,
những điều tôi vừa nói với BS, chỉ một ḿnh BS biết thôi”.
Thấy ông gọi tôi bằng BS nên tôi biết đây là chuyện hệ trọng nên vội
đáp:
_ “Tôi hiểu ư Trung Tá”.
Tôi đau đớn suy nghĩ, anh em chúng tôi đă đổ xương máu để giữ cứ
điểm này, chúng tôi đang chiến thắng, xác địch quân vẫn chưa lạnh,
tiếng súng truy đuổi địch vẫn đang nổ ṛn ră, chúng tôi chưa kịp
thưởng thức vị ngọt chiến thắng th́ đă bị nếm vị cay chua của chiến
bại! Bất giác tôi cảm thấy cay mắt, và v́ không muốn tỏ ra yếu đuối
trước mặt cấp chỉ huy, tôi vội đưa tay chào Trung Tá Lượm, ông bắt
tay tôi thật lâu và thật chặt, đôi mắt ông thật buồn và long lanh
ngấn lệ dưới ánh sáng hỏa châu, ông cúi đầu đi chậm chạp về phía
BCH/Lữ Đoàn.
Thật không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp ông, sau 30/4/75 ông đi
tù và đă bị CS sát hại bằng cách đẩy ông vào chảo nước sôi, v́ ông
đă ví chúng như những cái máy phát thanh, vắn nút “on” lên th́ đứa
nào cũng nói một giọng điệu. Xin vĩnh biệt Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm, vị
TĐT giầu kinh nghiệm và tài giỏi của tôi.
Tôi trở lại trạm cứu thương, phân loại thương binh và phân chia nhiệm vụ cho các y tá, sau đó trở về hầm trú ẩn và tôi mới thấy mệt mỏi, căng thẳng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi thức trắng đêm để cứu chữa thương binh, lúc c̣n lội theo TĐ.9/TQLC, tôi đă làm việc này nhiều lần, nhưng là làm việc trong công sự chắc chắn, được đệ tử bảo vệ và tiếp sức bằng những ca café sữa nóng, điếu thuốc thơm và sau trận đánh, khi thương binh đă được tản thương, thầy tṛ tôi cùng các sĩ quan tham mưu tiểu đoàn quây quân bên ấm trà điếu thuốc, luận bàn về những kinh nghiệm. Nghĩ lại trận đánh vừa qua, có lẽ thương binh, các y tá và tôi là những người phơi ḿnh dưới pháo địch, không hầm trú ẩn, không bao cát bảo vệ, cũng may là tất cả chúng tôi được b́nh yên. Tôi tự nhủ nếu sau này tôi làm cấp chỉ huy th́ sẽ không bao giờ phạm vào những thiếu sót này.
Trong hơn một tuần lễ có mặt tại Phước Tường, tôi có cảm tưởng như QĐ.I đă quên chúng tôi! Từ việc QĐ đă bỏ rơi đám người di tản, không lập các trạm y tế và an ninh trên QL1 để giúp đỡ những người kiệt sức và thanh lọc những toán đặc công VC, không cải chính tin vịt do VC tung ra để trấn an binh sĩ, không có một ông lớn nào tới thị sát chiến trường, không có một máy bay nào bay trên vùng trời này và nay ra lệnh bỏ đoạn đường này, khúc xương cổ của QĐ.1, đây có phải là một bản án tử h́nh cho QĐI.Tiền Phương?
Sáng 25/3/1975 lúc 5 giờ, bác sĩ đại đội trưởng ĐĐQY đi họp về và
chính thức thông báo lệnh bỏ Phước Tường, tôi được chỉ định đi bộ
với một thành phần của BCH/LĐ, BS ĐĐT và BS Duy th́ đi bằng GMC cùng
với thương binh, c̣n bác sĩ Nhi th́ đă rời Lữ Đoàn từ hồi nào không
ai biết!
Tôi chạy về hầm trú ẩn, ăn vội mấy muỗng cơm gạo sấy c̣n lại từ hôm
trước, đổ đầy hai bi-đông nước, đeo dây ba chạc, kiểm soát lại khẩu
súng ngắn, nạp một viên vào ṇng rồi khóa an toàn, ba-lô, nón sắt,
áo giáp, túi cứu thương, tôi xuống đồi và sát nhập vào toán TQLC
đang di chuyển trên QL1. Con đường này tôi đă đi lại nhiều lần, hôm
nay là lần cuồi cùng nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi bộ trên đó,
thật là một kỷ niệm khó quên.
Qua khỏi đỉnh đèo th́ một cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước
mắt tôi: nền trời xanh nhạt điểm thêm mấy sợi mây trắng hồng của
buổi b́nh minh, hai ngọn đồi Bạch Mă màu xanh đậm sừng sững phía Tây
QL1. Dưới chân đồi, uốn éo giữa những mảng ruộng màu xanh lá mạ trải
dài tới tận chân trời là sông Truồi. Sông Truồi nhận phụ lưu của
sông Đá Bạc, nước chẩy đôi ḍng phản chiếu ánh b́nh minh như môt dải
lụa trắng. Phía Đông QL1 biển xanh bát ngát, sóng gọi ŕ rào, lác
đác dưới chân đèo một vài thôn xóm vẫn c̣n ngủ say bên lũy tre xanh.
Trong cái yên lặng của buổi chớm b́nh minh, một vài tiếng gà gáy
sáng vọng về. Với phong thủy như vậy chẳng trách miền Trung có nhiều
nhân tài, thiên thần cũng lắm mà ác quỷ cũng nhiều và những giai
nhân tuyệt sắc làm nghiêng thành đổ nước.
Đại đội bảo vệ BCH/LĐ dàn đội h́nh tác chiến, tiền vệ hậu vệ và nhất
là hai cánh phải trái đi sâu vào hai bên đường, những sĩ quan tham
mưu và binh lính LĐ đi ở giữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi đă đến cầu
Truồi, cây cầu xinh đẹp này đă bị đơn vị canh giữ phá hủy sáng nay
khiến gây trở ngại không ít cho những toán quân đi sau.
Tôi lội qua sông Truồi, nước chỉ đến đầu gối và trong như lọc, qua
khỏi cầu Truồi chừng vài km, tôi gặp Thiếu Tá Trần Quang Duật,
TĐP/TĐ.16/TQLC, anh đang ngồi trên mũi xe jeep, để đầu trần, nón sắt
bên hông, tay cầm bản đồ, tay kia cầm ống liên hợp máy C25, đang
liên lạc với ai đó ở xa . Khi cuộc điện đàm đă xong, v́ là bạn cùng
lớp thời trung học Chu Văn An nên tôi đến bên Duật hỏi:
_ “Duật, mày làm ǵ ở đây mà để đầu trần không sợ bể “gáo dừa” sao?”
_ “Tao đang chờ tụi mày”.
Rồi anh chỉ tay về phía rừng dưới chân đồi Bạch Mă nói tiếp:
_ "Cho ăn kẹo tụi nó cũng không dám bắn, lính cánh B* của tao đang
phục ở trong đó, cũng mong tụi nó xuất hiện để hốt gọn, nhưng h́nh
như tụi “con nít” này cố tránh TQLC mà chỉ bám theo đuôi, nhiều lúc
tức thấy mẹ”. (* mỗi TĐ TQLC có quân số từ 700-1000 và thường chia
lảm 2 cánh khi đi hành quân, cánh A theo TĐT, cánh B đi theo TĐP)
Duật móc bao thuốc Capstan đầu lọc đưa tôi một diếu, hai đứa hút
thuốc, nhả khói gói bay về hướng Bắc, chúng tôi nh́n theo, bất giác
tôi hỏi Duật:
_ “Mày nghĩ Lữ Đoàn 147/TQLC rồi sẽ ra sao, lui về bằng đường nào?”
Duật cười nhạt:
_ “Tao làm sao biết được mưu cao của mấy ông tướng trong QĐ, nhưng
tao nghĩ LĐ.147 sẽ gặp ngàn vạn khó khăn, nếu không có KQ, HQ và PB
yểm trợ th́ sẽ có thể từ chết tới bị thương”!
Tôi chán nản vứt thuốc đang hút dở xuống, lấy gót bốt-đờ-sô di di,
nói:
_ “Thôi tao đi, mày ở lại, cẩn thận”.
Nhưng rồi Duật gọi giật tôi lại như muốn nói thêm điều ǵ, tay đưa
khăn:
_ “Trông mày như thương binh, lau những vết máu trên mặt và cổ đi”
_ “Máu thương binh tao không muốn lau, đang đánh mà bắt phải lui th́
tao sợ c̣n phải lau nước mắt nữa ḱa”.
Khoảng 6 giờ chiều 25/3/1975, chúng tôi đến chân đèo Hải Vân, đây là
điểm hẹn của LĐ.258 và lúc này tôi cũng được biết LĐ.15BĐQ ở phía
Bắc đèo Phước Tường cũng đă rút quân an toàn phía sau chúng tôi. V́
c̣n phải chờ những toán quân sau nên tôi vào quán nước bên đường gọi
một xị rượu đế để giải sầu, trong lúc đang uống, tôi chợt thấy một
thương binh TQLC chống nạng đứng cô đơn bên kia đường, tôi nghĩ đến
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, một thi sĩ nổi danh đời nhà Nguyễn và là
chú của vua Tự Đức, khoảng 150 năm về trước, ông đă có mặt tại nơi
đây và nh́n thấy một người lính của cụ Nguyễn Tri Phương bị thương
khi đánh nhau với quân Pháp tại Đà Nẵng, đang chống gậy khấp khểnh
vượt đèo Hải Vân để về Huế, ông đă xuất khẩu làm một bài thơ tuyệt
tác để lại cho hậu thế:
Tàn Tốt:
Loạn thi tùng ư bạt thân hoàn.
Nhất lĩnh đơn y chiếu huyết ban.
Ỷ trượng độc cô sơn tửu điếm.
Tự ngôn sinh nhập Hải Vân Quan.
Tạm dịch:
Tàn Binh:
Lê chiếc thân tàn vượt
đèo cao.
Một mảnh chiến y thắm máu
đào.
Chống gậy cô đơn bên quán núi.
Thầm hẹn ngày về Hải Vân Quan.
Tôi mời anh thương binh bên kia đường vào quán, khi anh ngồi vào bàn cùng uống rượu với tôi th́ mới biết anh thuộc TĐ.1/TQLC và là một trong những thương binh tôi cấp cứu tối hôm qua.
Khoảng 7 giờ tối 25/3, quân số Lữ Đoàn đă tập trung đầy đủ, tôi được
chỉ định mang các thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng. Thương
binh được chở trên 2 chiếc GMC, có một trung đội TQLC đi theo bảo
vệ, một điều ngạc nhiên là anh trung đội trưởng lại chính là thiếu
úy bị thương mà tôi mới mổ lấy đạn ra lúc 2 giờ sáng hôm nay (25/3).
Tôi thắc mắc về sự ĺ này th́ anh đáp:
_ “Nhằm ǵ vết mổ đó BS, tôi bị thương tay trái c̣n tay phải vẫn bắn
được mà”.
Tôi biết anh bị thương khá nặng cần phải tĩnh dưỡng hơn tuần lễ nên ngay sau khi mổ xong anh đ̣i trở lại đơn vị nhưng tôi đă không cho, nào ngờ anh căi lệnh bác sĩ điều trị và chuồn về đơn vị để tiếp tục chiến đấu. Xin khâm phục tinh thần chiến đấu của anh em TQLC.
Tôi thầm nghĩ Trung Tá Huỳnh Văn Lượm đă quá cẩn thận khi cho cả một trung đội bảo vệ thương binh và tôi, nhưng tôi đă lầm, khi gần đến thành phố, tôi đă thấy khói lửa bốc lên. Khi vào trong thành phố th́ cảnh tượng tết Mậu Thân tái xuất hiện trước mắt tôi, nhà cháy, xe dân sự cháy, xe nhà binh cháy, thỉnh thoảng những tiếng nổ lớn phát ra từ những đám cháy làm ngọn lửa phụt lên cao.
Dưới ḷng đường, trên hè phố, từng toán năm bẩy tên, đủ mọi sắc phục, cầm súng hướng lên trời bắn những loạt đạn vu vơ. Trong ánh lửa tôi nh́n thấy những cái nh́n căm thù trong mắt chúng, những cặp mắt quen thuộc của bọn đặc công hay du kích khi trước bị chúng tôi tóm cổ trói lại, nay chúng chưa bắn chúng tôi v́ chúng biết chắc chắn sẽ gục ngay bởi trung đội TQLC hộ tống. Cám ơn đại bàng Huỳnh Văn Lượm đă biết lo xa cho sinh mạng của thuộc cấp.
Thành phố này đang chết! Không bóng người dân, không cảnh sát, không quân cảnh, giờ này họ ở đâu? Đi thêm vài cây số nữa, một cảnh thương tâm hiện ra, những người dân tỵ nạn Trị-Thiên nheo nhóc nằm ngồi đầy hai bên đường, không chăn, không chiếu, chỉ c̣n những cặp mắt đă cạn khô nước dương lên nh́n chúng tôi!
Năm 1972, mùa Hè Đỏ Lửa tôi đă có mặt tại QKI, trong Liên Đoàn 71 QY, t́nh trạng ban đầu cũng như vậy, nhưng từ khi Tướng Ngô Quang Trưởng ra nhậm chức TLQK, ông đă ra lệnh cho lực lượng an ninh, cảnh sát bắt nhốt tất cả những tên giả dạng thường dân, sinh viên học sinh để sách động quần chúng, ông ra lệnh sử bắn những tên du kích, đặc công cải trang làm lính giă ngũ để phá rối cướp bóc. Ông cho lập các trại tạm trú để dân tỵ nạn có nơi che mưa nắng, có cơm ăn áo mặc, có bác sĩ săn sóc sức khỏe, v́ vậy t́nh h́nh mau chóng yên tĩnh trở lại và các binh sĩ yên tâm, tiếp tục chiến đấu mang lại chiến thắng vẻ vang cho QKI. Nhưng giờ này, 25/3/1975, ông và các phụ tá của ông ở đâu? Tại sao không làm những việc cần thiết đó như các ông đă làm năm 1972. Trong lúc binh sĩ vẫn vững tay súng ngoài mặt trận mà quư ông để hậu phương tang thương như thế th́ c̣n đâu tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi!
Chúng tôi đến TYV Duy Tân lúc 9 giờ đêm, cổng chính của TYV không có
đèn và cũng không có lính gác, tuy nhiên pḥng nhận bệnh c̣n có ánh
đèn, nh́n kỹ tôi thấy mấy quân y tá đang cặm cụi làm việc. Tại đây,
trong ánh đèn vàng tại cửa pḥng nhận bệnh, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá
Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng của chúng tôi, anh hiện là
trưởng khu giải phẫu của TYV, nhưng v́ đa số các y sĩ đă bỏ đi nên
anh phải đảm trách thêm công tác nhận bệnh, anh hứa sẽ săn sóc cho
thương binh của tôi. Khi tôi tỏ ư bất b́nh về các y sĩ bỏ đi, anh
Lương nói:
_ “không thể trách họ được, họ là những y sĩ bệnh viện, không một
tấc sắt trong tay, không có binh sĩ bảo vệ như y sĩ tiền tuyến,
thành phố bây giờ đầy đặc công VC và giặc cướp, QĐI th́ chẳng có
quân lệnh ǵ để đối phó nên các y sĩ họ .!”
Anh bỏ ngang câu nói “họ..” rồi chợt vui trở lại với tôi:
_ “TQLC các cậu đă về, tôi tin tưởng t́nh h́nh sẽ khá hơn”.
Nghe anh nói tôi bỗng thấy một nỗi buồn và cô đơn dâng lên, trong thế trận có tính cách chiến lược này, sự thắng bại không nằm trong tay của những người lính ngoài mặt trận, quanh năm chỉ có gạo sấy với cá khô mục như chúng tôi mà ở trong ư chí quyết chiến quyết thắng của những ông tướng ngồi trong pḥng có gắn máy lạnh tại QKI, Bộ TTM và Dinh Độc Lập. Những sự việc tôi đă quan sát từ một tuần lễ nay cho phép tôi tiên đoán sự sụp đổ của QKI, bất giác hai hàng nước mắt rơi trên má, vị mặn và tanh của máu và nước mắt kéo tôi về thực tế, tôi đứng nghiêm, đưa tay chào vị Y Sĩ quân đội đúng nghĩa và từ giă ANH để trở về với đồng đội mà không ngờ đây là lần đầu và cũng là lần cuối cùng tôi gặp ANH, niên trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương! V́ sau khi CSBV vào Đà Nẵng, chúng đuổi các thương binh ra khỏi TYV, bắt các y sĩ vào trại tù cải tạo và anh Lương đă tự sát để phản đối chính sách tù đầy dă man vô nhân đạo của chúng!
Khi công tác tải thương hoàn tất vào lúc 9 giờ 30 đêm, qua máy C25,
tôi nhận được lệnh của Tiểu Đoàn QY/TQLC phải tŕnh diện TĐ ngay lập
tức. Tôi đến BCH/SĐ/TQLC đang đóng tại căn cứ Non Nước vào lúc 10
giờ đêm. Căn cứ được pḥng thủ cẩn thận, đèn đuốc sáng rực,
BCH/TĐ/QY nằm trong một cái hangar lớn sau cổng chính phía tay phải,
tại đây tôi gặp hầu hết các Y Sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức,
họ cho biết v́ SĐ không có phương tiện chở thương binh về Thủ Đức
nên họ phải ra đây để điều trị tại chỗ, tôi nh́n vào trong hangar,
có đến năm sáu trăm giường bệnh đầy thương binh! Tôi đến tŕnh diện
Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, TĐT/TĐQY sau đó.
Ngay sau khi tôi đứng nghiêm chào TĐT th́ anh Thế chưa chào lại mà
chăm chú nh́n tôi từ đầu tới chân, vẻ mặt đầy lo lắng rồi anh hỏi:
_ “Toa bị thương hả, sao máu đầy người thế này?”
_ “Không, đấy là máu thương binh nhưng tôi chưa kịp thay quân phục”.
Y Sĩ Trung Tá không chào lại theo lối nhà binh mà anh nắm tay tôi
thật chặt, tay kia để lên vai tôi vỗ nhè nhẹ, tôi cảm nhận được tấm
ḷng đầy t́nh đồng đội, t́nh anh em của người chỉ huy, nó có sức
mạnh hơn ngàn lời nói hay huy chương lúc này, anh chỉ cái ghế đối
diện, khi cả hai cùng ngồi, anh mệt mỏi nói:
_ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang kẹt tại băi biển Thuận An, v́ HQ
không vào đón, ngày mai SĐ sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo
Hải Vân để tiếp cứu anh em ḿnh, nhiệm vụ của toa là chỉ huy một
toán quân y tá TQLC và 5 xe cứu thương do Liên Đoàn 71QY tăng phái,
mọi tiếp liệu và lương thực th́ Đại Úy Sanh, sĩ quan tiếp liệu đă lo
xong”.
Tôi nhận lệnh của anh Thế với tâm trạng hoang mang, nửa mừng nửa lo. Hoang mang v́ mới sáng nhận lệnh rút lui của ông tướng TL QK, bây giờ lại nhận lệnh của ông Tướng khác tiến trở lại, không biết chuyện ǵ đă xẩy ra trong nội bộ của các ông! Nhưng rồi tôi vui v́ được tham dự một cuộc hành quân giải cứu chính anh em ḿnh, nhưng cũng hơi lo, v́ tôi biết địa thế phiá Bắc đèo Hải Vân rất hiểm trở, đơn vị tấn công sẽ gặp nhiều thiệt hại, không biết một ḿnh tôi có cáng đáng nổi nhiệm vụ được giao phó hay không?
Đà Nẵng ngày 26 và 27 tháng 3 năm 1975.
Lúc 6 giờ sáng ngày 26/3/1975, toán y tá TQLC đă sẵn sàng tŕnh diện, tôi kiểm soát y cụ cứu thương, thuốc men, lương thực, nón sắt, áo giáp, mặt nạ chống hơi độc v.v.. tất cả trong t́nh trạng hoàn hảo, riêng vũ khí cá nhân M16 th́ thiếu bảo tŕ, tôi cho anh em 15 phút để lau chùi súng ống. Trong cuộc chiến tàn bạo này, quân y tá và y sĩ là một trong những mục tiêu ưu tiên của những tên VC bắn sẻ, y sĩ thuộc binh chủng TQLC có số lượng tử vong ngoài mặt trận cao nhất trong các quân binh chủng QLVNCH, v́ vậy tôi muốn súng cá nhân của họ phải trong t́nh trạng sẵn sàng, không hẳn là để tác chiến mà mục đích chính là tự vệ và yểm trợ cho nhau trong khi thi hành nhiệm vụ cứu thương. Sau đó tôi chia anh em ra làm 3 toán có nhiệm vụ rơ ràng: Toán thâu lượm thương, toán cấp cứu, toán tải thương. Tôi cũng yêu cầu đại Úy Sanh trang bị nón sắt áo giáp cho các tài xế của 5 xe tải thương. Tải thương trên đường đèo mà tài xế bị thương th́ sẽ gây ra những hậu quả không lường.
Đến 6 giờ 30 sáng 26/3/75 tôi báo cáo lên TĐQY là chúng tôi đă sẵn
sàng, tôi được lệnh chờ tại chỗ, tới 11 giờ th́ lệnh hành quân được
hủy bỏ mà tôi không biết lư do, nhưng toán quân y của tôi th́ được
lệnh ra bến thương cảng Đà Nẵng để đón Lữ đoàn 147/TQLC.
Khoảng 12 giờ, tôi thấy hai chiếc tàu “há mồm” cập bến, hai chiếc
tàu này chở một trung đoàn thuộc SĐ.2/BB từ Chu Lai về Đà Nẵng, quân
số của họ chỉ c̣n lại chừng ba đến bốn trăm người, quân phục nhầu
nát, khi đi qua cầu tầu, một số anh vứt súng M16 của họ xuống biển!
Đi sau cùng là hai thiếu tá bị thương nơi đầu, họ d́u nhau xuống cầu
tầu, tôi và đệ tử giúp hai ông một tay và đề nghị cấp cứu cho họ
nhưng cả hai ông cám ơn v́ phải di chuyển ngay với binh sĩ của họ.
Khâm phục trước thái độ huynh đệ chi binh này, tôi chào hai ông và
chúc b́nh an. Nghe tôi chúc, một trong hai ông đưa tay bắt và
như muốn thanh minh:
_ “Đă đánh đấm ǵ đâu, đang đi hành quân th́ có lệnh rút, mà lệnh
rút không rơ ràng nên anh em chúng tôi rất bực ḿnh”.
Vào lúc 2 giờ chiều th́ một chiếc LCU từ từ cập bến, khi bửng tàu mở
ra, tôi rất mừng v́ thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh
em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc
poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam
TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị
thương ở chân, mặc dù được các quân y tá d́u xuống cầu tàu nhưng ông
di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác
sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là
khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt
lại tại băi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh
rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước.
Theo Bác Sĩ Bùi Văn Rậu ĐĐT/QY/LĐ.147 th́ ông dược sĩ Lữ Đoàn và 4
ông y sĩ TĐ được ghi nhận là mất tích tại Thuận An. Buổi chiều, sau
khi tải thương xong, tôi hỏi thăm t́nh h́nh, BS Khoa nói vắn tắt:
_ “Khi TQLC ra đến băi biển Thuận An vào lúc 10 giờ sáng ngày
25/3/1975 th́ được lệnh dừng quân để tàu Hải Quân vào đón, nhưng chờ
đến 6 giờ chiều mà không có một chiếc tầu nào vào, LĐ 147 phải dàn
đội h́nh pḥng thủ để tiếp tục chờ tầu HQ th́ VC tấn công, loạt đạn
đầu tiên có 4 TQLC tử thương, anh em mang xác họ đến ĐĐQY, nhưng sau
đó th́ súng nổ khắp nơi, bị thương và tử thương rất nhiều nên chết ở
đâu th́ chôn ở đó. Sáng ngày 26/3/1975 khoảng hơn 8 giờ khi một
chiếc LCU vào đón thương binh và BCH/LĐ thi 4 tử sĩ được mang lên
tàu, nhưng xác của Đ/Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/TĐ.4 bị rơi xuống biển
nên chỉ cỏn 3.”
Tôi được giao nhiệm vụ săn sóc 20 thương binh thuộc LĐ.147, trong đó
có một chuẩn úy mới ra trường, trước kia anh là giáo sư trung học,
anh bị bắn vào đùi, vết thương không nặng lắm, sau khi lau chùi băng
bó xong tôi ngồi lại nghe anh kể chi tiết cuộc rút quân của
LĐ.147/TQLC, sau đó anh phẫn uất vừa khóc vừa nói:
_ “Bác sĩ biết không, cả một lữ đoàn bị lùa vào cái rọ, một băi cát
trống, tứ bề là nước mênh mông, không có lối thoát, không có địa thế
ẩn núp, làm bia cho CSBV bắn, như bị trói tay dẫn ra pháp trường
cát, mà người đưa LĐ.147 này ra pháp trường cát lại những vị chỉ huy
cao cấp của Quân Đội! Họ thuộc phe nào?”
Nhận thấy thương binh này quá xúc động và phẫn uất, dù chỉ là cấp chỉ huy trung đội, nhưng đă có một cái nh́n và nhận xét khá chính xác và chân thật, tôi vỗ vai anh an ủi và nói y tá chích cho anh một mũi thuốc an thần để anh nghỉ ngơi.
Sáng 27/3/1975, tin ṭan bộ lực lượng QĐ.I Tiền Phương dưới quyền
chỉ huy của Tướng Lâm Quang Thi* bị tan ră, trong đó có LĐ.147/TQLC,
như một tiếng sét ngang tai, thoạt đầu không ai tin, vẫn cho rằng
CSBV tung ra như đă từng rêu rao trên đài phát thanh tối 23/3 là
chúng đă “diệt gọn LĐ.258 ngụy” để làm lung lay tinh thần chúng tôi.
Không thể được, bởi v́ lực lượng QĐ.I/TP gồm những đơn vị thiện
chiến của QLVNCH đó là: SĐ.1/BB gồm có 4 trung đoàn và Đại Đội Hắc
Báo, một sư đoàn nổi danh đă bảo vệ vùng hỏa tuyến và luôn luôn
chiến thắng. Đó là Lữ Đoàn 147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến tinh
nhuệ cùng với Pháo Binh và ĐĐ Viễn Thám, một đạo quân chưa bao giờ
biết lui. Đó là LĐ.1 Thiết Kỵ với chiến xa M48 tối tân đă từng gây
kinh hoàng cho 8 SĐ/CSBV năm 1972. Đó là LĐ/BĐQ chỉ biết “sát Cộng”
và c̣n bao tiểu đoàn pháo binh nặng nhẹ cùng các đơn vị Địa Phương
Quân và Nghĩa Quân v.v.. Cỏn về vũ khí đạn dược ư? Chỉ riêng kho đạn
pháo binh tiền phương của TQLC cũng đă có 100.000 trái đại bác 105
ly.
Với một lực lượng như trên, giữ vững tay súng và y chí từ trên xuống dưới, cộng thêm hỏa lực yểm trợ của SĐ.1KQ và Hải Pháo vùng I Duyên Hải th́ CSBV sẽ không thể làm ǵ được họ. Khi chúng tôi nhận được lệnh bỏ QL1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng th́ chúng tôi đă tiên đoán được các lực lượng tiền phương QĐ.I sẽ gặp muôn bàn khó khăn và nguy hiểm, gần như họ bị dồn vào tuyệt lộ! Nhưng không lư do ǵ khiến chỉ trong 2 ngày mà lực lượng Tiền Phương bị tan ră! Nhưng tin tức dồn dập đưa về, bắt chúng tôi phải tin và đó đúng là sự thật!
Chúng tôi đau đớn cho đồng đội, tức giận và nghi ngờ khả năng của các cấp chỉ huy của QĐ.I, của bộ TTM, của Dinh Độc Lập, không biết v́ nguyên nhân nào, v́ bị áp lực nào hay v́ quyền lợi và mạng sống bản nhân, phe nhóm mà họ nỡ bỏ rơi để quân CSBV tàn sát một đạo quân tinh nhuệ đă, đang hy sinh để bảo vệ đất nước? Bây giờ th́ đến thân phận chúng tôi, không biết rồi sẽ ra sao? Chúng tôi chỉ c̣n biết trông cậy vào nhau, những đồng đội của binh chủng TQLC.
Chiều ngày 27/3/1975, tôi lên TTHQ/SĐ để t́m hiểu thêm tin tức th́ gặp Thiếu Tá Trần Vệ, một bạn cũ, hiện anh là trung tâm trưởng TTHQ, anh buồn rầu cho biết QĐ.I TP của Tướng Lâm Quang Thi* đă thực sự tan vỡ, mấy hôm nay rồi không nhận được lệnh ǵ từ trên QĐ, và khi có việc gấp anh phải đích thân lên QĐ th́ chẳng c̣n thấy ai ở trên đó nữa! Ngoài ra tin cho biết Quảng Nam, Quảng Ngăi đă “thất thủ” (?) v́ SĐ.2/BB đă được lệnh rút khỏi nơi này mặc dù chưa bị CSBV tấn công, cuộc rút quân đă xảy ra trong hỗn loạn! Như vậy cho đến 27/3/1975, lănh thổ QKI chỉ c̣n thành phố Đà Nẵng! Tôi chán nản lo lắng, quay trở lại TĐQY.
Quảng Trị, Huế ngày 24,25,26,27/3/1975.
Trong khoảng thời gian trên, tôi đă có mặt tại đèo Phước Tường, trên
QL1, đèo Hải Vân và Đà Nẵng, nhờ vậy mà tôi biết những điều như sau:
1.Lệnh bỏ đèo Phước Tường và QL1 Bắc đèo Hải Vân do đích thân Tướng
TL/QKI Ngô Quang Trưởng ra lệnh lúc 4 giờ sáng ngày 25/3/1975
2.QL1 từ cầu Nong, phía Nam Huế đến đèo Hải Vân trong những ngày 24
và 25 tháng 3/1975 vẫn an toàn để rút quân, ngày 25/3/1975,
LĐ.258/TQLC và LĐ.15/BĐQ rút quân trên đoạn đường này đă hoàn toàn
yên tĩnh, không một viên đạn lớn nhỏ nào bắn về phía chúng tôi.
Tháng 4/2009, tôi đến thăm Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, LĐT/LĐ.258, là
người có trọng trách bảo vệ đoạn đường này, ông khẳng định:
_ “Đoạn QL1 này cho đến ngày 25/3/75 vẫn sử dụng được”.
Gần đây, tôi được đọc một điện thư của Đại Úy Nguyễn Quang Đan,
chánh văn pḥng của TT/TL/SĐTQLC, gửi cho một niên trưởng, nguyên
văn như sau:
“Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi
đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi tŕnh ngay lên Thiếu
Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông: “đ..m..thế này th́
chết lính tao rồi!”. Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đă ghi lại lệnh
rút lui của Tướng Thi. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với
Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra
Thuận An đưa tận tay lá thư của TT Lân cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời
dặn của TT/TL/SĐTQLC: “T́m ra quốc lộ 1 mà đi”.
Nhưng tiếc thay, Đại Tá Lương lại đi theo HQ cho dễ dàng ..và oan
khiên, nhiều người lại đổ lên đầu ông TT/TLTQLC!!! Niên trưởng cũng
biết lúc đó ḿnh đă biệt phái LĐ.147 cho Tiền Phương QĐI, Tướng Lân
không được phép điều động LĐ.147 mà phải đưa tôi lên đèo Hải Vân để
liên lạc với các NT 20 thôi. Chuyện c̣n dài, tôi sẽ kể sau với NT.
Kính chào NT. Đan”.
Ngoài ra, cũng theo nguồn tin này, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đă gửi
Đại Tá Quế TMT/SĐTQLC qua BTL/HQ vùng I DH để đôn đốc HQ đón LĐ.147
trong trường hợp Đại Tá Lương LĐT/LĐ.147 v́ lư do nào đó phải rút
quân bằng HQ.
3. Nếu Tướng Ngô Quang Trưởng không cho lệnh rút lực lượng bảo vệ
đoạn đường QL1 này và Tướng Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định
dùng QL1 để hành quân lui binh th́ các ông đă đem về Đà Nẵng toàn bộ
lực lượng Tiền Phương, bảo toàn LLTP th́ cuộc chiến QKI đă không bi
đát như đă xảy ra.
Với con mắt của một người lính chiến, dù là lính chuyên môn, chúng
tôi tin tưởng lui binh theo QL1 sẽ bảo toàn được lực lượng tiền
phương. Tại sao? Tuy cuộc hành quân lui binh bao giờ cũng khó khăn
hơn hành quân tấn công, nhưng trong trường hợp này, QL1 vẫn nẳm
trong tay ta và được bảo vệ bởi những đơn vị tinh nhuệ, địa thế dọc
theo QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân quá quen thuộc với mọi cấp quân cán
chính vùng I. Khởi đi Từ Dạ Lê, nơi có BTL/SĐ.1/BB và TTHL/SĐ, qua
Phú Bài , Nong , Truồi , Lăng Cô , Hải Vân , Đà Nẵng.
Ngoài ra, các đơn vị yểm trợ hỏa lực như Pháo Binh, Không Quân, Hải
Quân vẫn c̣n đầy đủ, nhất là Hải Pháo, di động dọc theo bờ biển th́
có một xạ trường lư tưởng hơn bất cứ chiến trường nào khác. Một yếu
tố quan trọng nữa là áp lực địch chưa có ǵ. Và giả dụ chúng có 2
hay 3 sư đoàn bám theo truy kích th́ vẫn không làm ǵ được với đoàn
quân tinh nhuệ của QĐ.ITP, và chính trong giai đoạn này chúng mới là
mồi ngon, là bia hứng đạn của những anh hùng Không Quân SĐ.1/KQ,
những anh hùng Hải Pháo của HQ vùng I. Với tất cả những yếu tố đó,
dù là kinh nghiệm của một người lính, chúng tôi cũng thấy dùng QL1
làm trục lui binh là hợp lư là khả thi. QL1 không phải và không bao
giờ có thể giống như Liên Tỉnh Lộ 7 của QKII được.
Vậy tại sao Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.I Lâm Quang Thi lại quyết định chọn lui binh bằng HQ tại băi biển Thuận An để toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐI của ông tan ră! Một vị tướng tiền phương tài ba có tất cả những lư do để ông chọn đường lối lui binh qua ngả Thuận An, xuôi Nam để về Đà Nẵng, mà yếu tố quyết định sống chết vẫn là cái CẦU PHAO tại cửa Tư Hiền. Dĩ nhiên ông và các phụ tá của ông biết những yếu tố cần có để thiết lập cầu phao, đặc biệt là Công Binh và HQ. Vậy mà nó không có! Đó là điều chúng tôi không thể hiểu nổi nên mới tâm sự với những đồng đội của tôi đă sống sót từ băi cát bờ biển Thuận An nhân dịp ông Tướng xuất bản cuốn “Hell In An Lộc”.
Trong hồi kư “Ngày Tháng Không Quên: 8/3/75-30/4/75”, Đại Tá Nguyễn
Thành Trí TLP/SĐTQLC kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Tây-Bắc Huế, sau khi họp
với Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm
TL/SĐ.1BB, Đại Tá Lê Ngọc Hy TMT/TP, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ
TKT/Thừa Thiên cùng có nhận định khó bảo vệ được Huế nên Tướng Thi
đề nghị rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau:
“Lực lượng Tây-Bắc do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó di
chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây Hải Quân và Công Binh QĐ.I sẽ phối
hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ
dàng. Lữ Đoàn 468/TQLC từ đèo Hải Vân sẽ cử một đơn vị đến chiếm núi
Vĩnh Phong để bảo vệ điểm vượt sông đồng thời làm thành phần tiếp
đón SĐ.1/BB do Tường Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ
tập trung về điểm vượt sông song song với cánh quân TQLC. Tất cả các
vật liệu nặng, pháo binh, chiến xa không thể di chuyển hay vượt sông
được, đều phải được phá hủy tại chỗ.”.(TT2/TQLC, trang 538)
Sau đó th́ Tướng Thi chỉ định Tướng Điềm và Đại Tá Hy bay trực thăng
vào Đà Nẵng đệ tŕnh kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng,
c̣n Đại Tá Nguyễn Thành Trí th́ thông báo ngay cho các đơn vị trực
thuộc biết để chuẩn bị tinh thần, tổ chức gọn gàng và sẵn sàng thi
hành khi có lệnh. Ông viết tiếp:
_ “Khoảng 1730 giờ, Đại Tá Hy đáp trực thăng đến và trao cho tôi
công điện mang tay. Ông nói thêm là công điện này xác nhận việc thi
hành kế hoạch rút quân như đă bàn thảo khi trưa tại BCH Hải Quân.
Tôi ra lệnh cho các đơn vị sẽ bắt đầu thi hành kế hoạch như đă thông
báo vào lúc 1800 giờ.
Suốt đêm theo dơi tùng cánh quân rút về mà ḷng se lại! Những người
lính Mũ Xanh ấy đến giờ phút chót vẫn giữ vững tay súng, đẩy lui
từng đợt xung phong của quân thù mưu toan lấn chiếm chia cắt. Chưa
có vị trí nào bị mất trên hành lang sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi. Địch
chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị
Huế. Nhưng giờ đây mọi người phải rút đi như những kẻ thua cuộc!”(
TT2/TQLC trang 538).
Cùng với ĐạiTá Tư Lệnh Phó SĐTQLC, các tiểu đoàn trưởng thuộc quyền
như Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ.7, Thiếu Tá Phạm Văn Tiền TĐT/TĐ.5,
các Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng như Cao Xuân Huy, Phan Văn
Đuông, Toàn, Minh v.v.. đă ghi lại những đoạn đường chiến binh máu
và nước mắt của các anh trong giai đoạn bị bắt buộc phải rút quân
này.
Các Tiểu Đoàn 3,4,5/TQLC, TĐ.2PB, Đại Đội Viễn Thám đang ở thế
thượng phong đối đầu với các trung đoàn CSBV tại Quảng Trị th́ nhận
được lệnh rút quân hỏa tốc về cửa Thuận An lúc 6 giờ chiều ngày
24/3/1975! Họ đoạn chiến với địch, rút ra QL1. Trở ngại thứ nhất là
rút quân hỏa tốc trên đoạn đường dài hơn 30 km, không có phương tiện
chuyên chở nên vũ khí nặng và lương thực phải phá hủy tại chỗ, chỉ
c̣n đem theo vũ khí cá nhân! Trở ngại thứ hai là khi tới bến phà Tân
Mỹ, những phà chở quân đă bị kéo sang bên kia bờ phá Tam Giang và bị
phá hủy! Các chiến đỉnh của HQ và LCM của Quân Vận cũng đă bỏ đi!
Tại đây một số anh em TQLC phải bỏ tiền túi thuê ghe gọ của dân để
qua phá. Riêng TĐ.7/TQLC đóng tại Hương Điền, gần với Thuận An nên
quân số và vũ khí được bảo toàn. Lúc 8 giờ sáng ngày 25/3/1975, tất
cả lực lượng TQLC thuộc LĐ.147 đă tập trung đầy đủ tại băi biển
Thuận An để chuẩn bị suôi Nam, đi về cửa Tư Hiền như lệnh của Tướng
Tư Lệnh Tiền Phương.
Nhưng cuộc lui binh của LĐ.147/TQLC đă không thực hiện được v́ 3
yếu tố “KHÔNG” sau đây:
Không có cầu phao tại cửa Tư Hiền!
Không có các giang đoàn và duyên đoàn bảo vệ băi biển Thuận An.
Không có KQ, HQ yểm trợ, tiếp viện và tiếp tế cho LĐ.147/TQLC.
1/-Không có cầu phao!
Cầu phao bắc qua của Tư Hiền đă không được thực hiện như trong lệnh
hành quân! Cầu phao này thuộc trách nhiệm của Công Binh QĐI và HQ.
Không cầu phao làm sao đưa quân sang sông vượt cửa Tư Hiền! Thế là
Lực Lượng Tiền Phương của Tướng Thi “chết đứng” trên băi biển. Không
rơ số phận các đơn vị khác ra sao nhưng vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày
25/3/1975 th́ LĐ.147/TQLC của Đ/Tá TQLC Nguyễn Thế Lương nhận được
lệnh từ QĐ.1TP:
“Dừng quân trên băi biển phía Nam cửa Thuận An để tàu HQ vào đón”.
Thời điểm 10.30 sáng 25/3/1975 t́nh h́nh c̣n yên tĩnh, LĐ.147/TQLC
dàn quân pḥng thủ trật tự để chờ tàu. Ngoài khơi một tàu lớn bỏ
neo, người từ trong bờ c̣n trông rơ chữ HQ 801, như vậy khoảng cách
không xa, ngoài ra c̣n 5 chiếc LCM chạy ṿng ṿng c̣n TQLC trên bờ
th́ vẫn chờ, và chờ tới 5 giờ chiều mà vẫn không có tàu nào vào đón,
và địch quân đă đến bao vây quân ta trên băi cát! Hơn 6 tiếng đồng
hồ chờ đợi, nằm ôm súng ngắm tàu diễn hành và cũng là khoảng thời
gian cần và đủ để địch đuổi kịp quân ta và dĩ nhiên băi đáp đă mất
an ninh.
Theo hồi kư “Can Trường Trong Chiến Bại”, Phó ĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại,
TLHQ vùng I Duyên Hải th́ trong các ngày 24,25,26/3/1975, ông đă
thành lập Liên Đoàn Đặc Nhiệm do Trung Tá Lê Thành Uyển chỉ huy.
Liên Đoàn này gồm có 8 chiến hạm và 4 chiến đỉnh để bảo vệ vùng biển
Thuận An. Ngoài ra tại đây ông c̣n có 4 LCU và 18 LCM8, cả hai là
loại tàu đáy bẳng, có thể vào sát bờ (LCU chở được 400 quân, LCM8
chở được 200). Và xin nghe tướng Hồ Văn Kỳ Thoại giải thích lư do HQ
không vào đón TQLC được trong ngày 25/3 như sau:
“V́ sóng biển cấp 2, sóng cao từ 1/2 đến 1m và bờ biển có sóng ngầm”! Rồi
ông tiếp:
“Khoảng chừng 100 quân nhân phải dùng phao và ghe nhỏ hoặc bơi ra
và được các chiến đỉnh vớt”
Ông Tướng nói th́ chúng tôi biết thế thôi! tuy nhiên cũng cám ơn Hải
Quân là vào sáng ngày 26/3/1975 đă có một chiếc LCU vào đón được
BCH/LĐ.147, tử sĩ và thương binh cùng một số TQLC. Rủi thay LCU này
bị trúng hỏa tiễn AT3 của VC khiến một số tử thương và bị thương,
trong đó có Đại Tá Lương bị thương vào chân, c̣n chiếc LCU thứ 2 th́
bị mắc cạn và KHÔNG C̉N chiếc nào vào nữa. Cũng đúng thôi, theo lệnh
hành quân, tầu vào bờ đă trễ hơn một ngày, dư thời gian cho CSBV
nhắm AT3 và đủ mọi loại vũ khí vào TQLC và tàu HQ!
“Chiến trường mỗi phút giá đáng ngàn sinh mạng đấy các ông ơi!”
Trong hồi kư “Can Trường Trong Chiến Bại”, PĐĐ Thoại không nói ǵ
đến nỗ lực của HQ về việc thiết lập cầu phao tại cửa Tư Hiền trong
ngày 24/3/1975, như Tướng Tư Lệnh TP đă nói trong lệnh hành quân mà
ông chỉ nói đến nỗ lực này trong ngày 26/3/1975! Quá trễ rồi! Ngoài
ra PĐĐ có đề cập đến một chi tiết khá lạ: trang 200 và 204 ông Tướng
cho biết: Tướng Thi và bộ Tham Mưu của ông khoảng 100 người lên soái
hạm HQ5 vào buổi trưa ngày 24/3/75, tại đây Tướng Thi ra lệnh cho
Tr/Tá Uyển, chỉ huy liên đoàn đặc nhiệm, bằng tiếng Mỹ: “Go South”.
Nhưng không được Tướng Thoại chấp Thuận. Lúc 4 giờ 20 chiều ngày
25/3/75, Tướng Thi lên HQ715 để về Đà Nẵng!
Chúng tôi mong rằng chi tiết này không có thật, v́ tôi tin rằng
không có một ông Tướng nào có thể bỏ cả một đạo quân dưới quyền đang
lâm nguy.
2/Không có lực lượng bảo vệ băi biển Thuận An!
Băi biện Thuận An có thể ví như một cù lao nổi lên trên mặt nước.
Phía trước là biển Đông, phía sau là đầm Thủy Tú, đầm Hà Trung và
Phá Tam Giang, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền,
(hai cửa này là nơi thông thương giữa biển và các đầm kể trên, bề
ngang của hai cửa này rộng trung b́nh từ 200m đến 500m.). Khu vực
này theo Tướng Thoại th́ được bảo vệ bởi 2 Giang Đoàn và 2 Duyên
Đoàn vậy mà trong chiều ngày 25/3/75 quân CSBV ung dung, không tốn
một viên đạn đă vượt qua đầm, qua sông để bao vây băi biển Thuận An,
nơi LĐ.147/TQLC tập trung để HQ vào đón như lệnh của QĐITP lúc 10
giờ 30 sáng 25/3/1975! Lực lượng bảo vệ đă đi đâu? và theo lệnh của
ai?
3/Không có KQ, HQ yểm trợ và tiếp tế khi bị bao vây!
Theo lệnh QĐ.I/TP lúc sáng ngày 25.3, LĐ.147/TQLC chờ tầu trên băi
cát, v́ không có hai yếu tố 1 và 2 kể trên nên đă bị CSBV đuổi kịp,
bao vây và tấn công! VC chiếm các đồi cao với đầy đủ vũ khí nặng
nhẹ, TQLC với súng cá nhân, họ nằm phơi ḿnh trên băi cát trống
trải! Chuyện ǵ sẽ xẩy ra?
a/ Họ đă bị bỏ rơi trước mắt một lực lượng Hải Quân vùng I/Duyên Hải
của Tướng Thoại vô cùng hùng hậu với hỏa lực Hải Pháo kinh hồn,
những khẩu đại pháo đă không khai hỏa!
b/ Họ đă bị bỏ rơi khi trên trời có cả một SĐ1/KQ của Tướng Khánh
với bao nhiêu phản lực xé gió, bao nhiêu trực thăng vơ trang! Trực
thăng nhiều đến độ không c̣n chỗ chứa phải di tản bớt về các phi
trường phía Nam! Lính TQLC mơ thấy từng phi đoàn phản lực, hàng đàn
trực thăng vơ trang đến yểm trợ, tiêu diệt VC đang phơi ḿnh trên
đồi cát. Nhưng không, đó chỉ là giấc mơ c̣n thực tế là những đàn
chim biển, những con hải âu bay lượn thảnh thơi, vô t́nh, vô tư kiểu
“Sống chết mặc bay”!
LĐ.147/TQLC hoàn toàn bị bỏ rơi trên băi biển, nước mênh mông mà
không có một giọt nước để uống tương tự như có hỏa lực hùng hậu KQ,
HQ mà phải đi lượm từng viên đạn M16 rơi trên băi cát để tự vệ và tự
tử! Sự thật là vậy đó thưa quư vị Tư Lệnh Tiền Phương, TLKQ, TLHQ
vùng I. Cho đến chiều ngày 26/3/1975, không c̣n đạn để tự vệ, họ đă
“tiết kiệm” bằng cách chỉ dùng một trái lựu đạn M26 để mà tự sát tập
thể! Và đă có nhiều cuộc tự sát tập thể như vậy! Ngoài khơi, trên
cao làm sao quư vị nghe được những tiếng nổ này của M26!
Sức cùng lực kiệt, tất cả những ǵ c̣n lại của LĐ.147/TQLC đă bị
CSBV bắt trói sớm hơn! giống như Tổng Thống “một ngày” khi ông ra
lệnh bàn giao QLVNCH cho CSBV! Những người lính TQLC đổ bao nhiêu
xương máu và nước mắt nơi địa đầu giới tuyến, lính Tổng Trừ Bị bị sử
dụng làm quân địa phương giữ đất cho QKI, th́ vào lúc 3 giờ sáng
ngày 27/3/1975 đă bị tan hàng một một cách đau đớn không v́ địch
quân mà v́ chính những người ..vắt chanh! Sự tan ră Lực Lượng Tiền
Phương QĐ.I nói chung và LĐ.147/TQLC nói riêng là hậu quả tất yếu
đưa đến QĐ.I phải bỏ Đà Nẵng vào sáng 29/3/1975.
Thưa Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐI.
Được biết trường đại học University of North Texas vừa xuất bản cuốn
sách “Hell in An-Lộc” do chính ông viết bằng Anh Ngữ, cuốn sách nói
về trận chiến An Lôc năm 1972. Tuy ông không chỉ huy hay có mặt tại
chỗ, nhưng ông đă sưu tầm tất cả dữ kiện để viết “Hell in An Lộc”,
để nói cho người Mỹ hiểu rơ về tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân
Đội VNCH không như một số truyền thông phản chiến đă có định kiến
sai lạc bất lợi cho chúng ta về cuộc chiến này.
Cuốn sách “Hell In An Lộc” được nói đến nhiều nhưng cá nhân chúng
tôi không dám có ư kiến khi tôi chẳng biết ǵ về trận chiến ở đó cả,
nhưng chúng tôi đă có mặt, đổ máu và nước mắt từ Quảng Trị, Huế và
chỉ rời Đà Nẵng vào 8 giờ sáng ngày 29/3/1975 tại băi biển NON NƯỚC
nên chúng tôi mong ước Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I
viết một cuốn sách về trận chiến do đích thân Trung Tướng chỉ huy,
cuốn sách được viết bằng chữ quốc ngữ (Việt Nam) để những người lính
chúng tôi, dù đă khuất hay sắp khuất đọc và biết được những khó khăn
trong cuộc chiến tại đây đưa đến hậu quả cả một đoàn quân tinh nhuệ
đứng khoanh tay, chịu trói!
Thưa Trung Tướng Tiền Phương.
Với cái nh́n hạn hẹp của một người lính về t́nh h́nh và địa thế th́
tôi cứ thắc mắc cho tới ngày nay rằng tại sao:
a/ Tư Lệnh không cho Lực Lượng Tiền Phương QĐ.I lui binh theo đường
bộ, lấy QL.1 làm trục chính? Như tôi đă tŕnh bày từ đầu bài viết
này, những điểm quan trọng trên QL1 đều có quân ta trấn giữ và vẫn
c̣n an ninh. Thiết tưởng không cần nêu lên những yếu tố khả thi khi
rút theo QL1 và những vô kế khả thi khi đi ra biển mà những con tàu
HQ không chịu vào bờ.
b/ Khi Tư Lệnh rút lui theo bờ biển hẳn là có lư do gây bất ngờ cho
địch và tiết kiệm thời gian di chuyển cho quân ta v́ có tàu Hải Quân
yểm trợ. Nhưng cái bất ngờ nhất mà Tư Lệnh gặp phải, nguyên nhân
chính gây đau thương cho thuộc cấp là cầu phao tại cửa Tư Hiền đă
không có, không được Công Binh và HQ phối hợp thực hiện như trong
lệnh hành quân! Lư do tại sao? Ai chịu trách nhiệm?
c/ Khi cầu phao ở cửa Tư Hiền không được thực hiện th́ kế hoạch lui
binh của Tư Lệnh thay đổi là Hải Quân vào đón Bộ Binh. Thật là nhanh
chóng gọn gàng và chắc chắn thành công nếu như HQ thi hành kế hoạch.
Nhưng HQ đă không tuân lệnh! Ở đây chúng tôi không dám thắc mắc với
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh HQ Vùng I, v́ thực tế hay lư
thuyết th́ Tướng Thoại vẫn là thuộc cấp của Tư Lệnh QĐ. Vậy th́ cái
ǵ khiến Tư Lệnh không điều động được Hải Quân như kế hoạch đă định
khiến gần 4000 quân thiện chiến đứng làm bia cho CSBV tập bắn hoặc
làm mồi cho cá biển Đông?.
d/ Không Quân Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối trong trận chiến này,
SĐ.1 Không Quân của Tướng Khánh vẫn c̣n nguyên vẹn, hùng mạnh. Vậy
mà không có bất cứ một phi vụ oanh tạc nào lên đầu địch quân. Một
người lính như tôi c̣n biết hỏa lực KQ là yếu tố quyết định thành
công cho lui binh, vậy th́ thưa Tư Lệnh, những phản lực đă bay đi
thả bom ở đâu? Những trực thăng bay đi đâu cho đến nỗi không có một
chiếc để tải thương và tiếp tế cho đoàn quân đang phơi ḿnh trên băi
biển.?
Mũ Xanh Nguyễn Thế Thụy,
âm thoại viên của Tư Lệnh SĐ/TQLC viết:
_ “ Đại Úy Nguyễn Quang
Đan, chánh văn pḥng TL/SĐTQLC và tôi được lệnh dùng trực thăng của
Tư Lệnh chở gạo sấy đề tiếp tế cho LĐ.147 tại băi biển Thuận An.
Chúng tôi cố nhét cho thật nhiều, nhưng chỉ một chiếc trực thăng như
thế này th́ phải bay bao nhiêu phi vụ để tiếp tế gạo cho gần 4000
người trong khi thời gian th́ quá ít. Đến địa điểm, Đại Úy Đan và
tôi đẩy những thùng gạo sấy xuống cho các anh em ỏ dưới rồi quay về
gấp làm chuyến khác. Khi chuyến thứ 3 vừa xong, từ Thuận An bay về
Non Nước th́ phi công báo là trực thăng của Tướng Điềm TL/SĐ.1/BB bị
nạn cần cấp cứu, họ xin ư kiến Đại Úy Đan và anh Đan đă OK, mặc dầu
không phải nhiệm vụ. Trực thăng đổi hướng phải, rồi hướng Bắc, phát
hiện trực thăng Tướng Điềm nằm gần QL1, phía Bắc Lăng Cô chừng 10
km. Khi chúng tôi vừa chạm đất th́ phi hành đoàn, Tướng Điềm và một
Thiếu tá chạy về phía chúng tôi và cũng là lúc VC từ b́a làng khai
hỏa. Chuẩn Tướng Điềm chạy khập khiễng trên cát, chúng tôi đă chạy
lại d́u ông lên trực thăng của Lạng Sơn và đưa họ về Đà Nẵng, rồi
trực thăng đi đổ xăng và chấm dứt tiếp tế gạo sấy cho anh em”!
Sự thật nó là
như thế đấy, bao nhiêu trực thăng đi đâu cả rồi thưa Tư Lệnh? Khốn
nạn cho đến nỗi không c̣n một chiếc nào để tải thương và tiếp tế đạn
được cho LĐ.147, tiếp tế cho anh em vài thùng gạo sấy để nhai th́
phải dùng đến trực thăng chỉ huy của Tư Lệnh TQLC! Và rồi cũng chỉ
c̣n một chiếc trực thăng duy nhất của TL/SĐTQLC đi cấp cứu
TL/SĐ.1/BB! Chuyện tưởng đùa mà có thật!
Thưa Tư Lệnh Tiền Phương.
Những thắc mắc nêu trên
không phải của riêng cá nhân tôi mà của tất cả những quân sĩ dưới
quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đă nằm lại vĩnh viễn ở “Bờ Biển
Thuận An, Pháp Trường Cát”! Của những quân nhân dưới quyền chỉ huy
của Tư Lệnh mà họ đă bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn để rồi những tên du
kích VC mang dây kẽm gai đến cột chung họ lại với nhau! Tất cả chúng
tôi mong ước được nghe Tư Lệnh giải thích hầu chia sẻ với Tư Lệnh
những khó khăn mà Tư Lệnh gặp phải, cho dù những khó khăn đó đến từ
bất cứ đâu.
Quan trọng hơn nữa là lời giải thích của Tư Lệnh sẽ trả lại uy tín
và danh dự cho tất cả các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đánh tan
tin đồn của những kẻ vô trách nhiệm ở hậu phương rằng cấp chỉ huy
ngoài mặt trận đă bỏ lính!
Dầu sao đối với người Mỹ th́ dù Tư Lệnh có giải thích hay không th́
chuyện cũng đă thuộc về quá khứ, c̣n đối với các anh em cựu quân
nhân chúng tôi th́ vẫn cần và rất cần uy tín của Tư Lệnh nói riêng
và các Tư Lệnh khác nói chung v́ cuộc chiến cho Việt Nam Tự Do vẫn
c̣n tiếp diễn, cuộc chiến c̣n th́ chúng tôi vẫn cần những cấp chỉ
huy có uy tín.
Thay cho lời kết:
Lúc 8 giờ tối ngày 28/3/1975, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh
Quân Khu I, họp các đơn vị trưởng của QĐ.I tại BTL/Hải Quân Vùng I
Duyên Hải; Tại đây, ông đă ra lệnh rút bỏ Quân Khu I bằng Hải Quân
vào lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/1975. V́ chỉ có 10 tiếng đồng hồ để
chuẩn bị nên cuộc rút quân này đă diễn ra trong hỗn loạn và ..đẫm
máu!
Như vậy, tính từ 6 giờ chiều ngày 24/3/1975, khi các đơn vị TQLC bắt
đầu rút khỏi Quảng Trị cho đến 6 giờ sáng ngày 29/3/1975 khi Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng bơi ra tàu Hải Quân từ Trung Tâm Hành Quân
TQLC trong căn cứ Non Nước Đà Nẵng, Quân Đoàn I đă bị tan ră trong
ṿng 4 ngày rưỡi!
Về việc rút quân này, lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, trước khi bơi
ra tàu Hải Quân, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă nói với Đại Tá
Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC một câu đáng để chúng ta
và hậu thế suy ngẫm:
“Coi như đây là một cuộc tự thoát”! (TT2/TQLC trang 548)
Tài liệu tham khảo:
1/TT2/TQLC.
2/ Can Trường Trong Chiến Bại của PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại.
3/ Street without Joy và Last Reflections of a War của Bernard Fall.
Điếu văn vĩnh biệt cựu Đại Tá Nguyễn Năng Bảo
Những ngày hành quân Cồn Thiên
Người lính VNCH sau 30 Tháng Tư
Người Tây phương tính năm lịch theo mặt trời
Một hội nghị với nhiều ư nghĩa
Tấm thẻ bài cho người nằm xuống
TĐ4 TQLC và Những ngày tháng sau cùng
Thôi ! Ḿnh về Linh Xuân Thôn đi em
Tiến tŕnh thành lập Chiến Đoàn và Lữ Đoàn