MX LÊ CÔNG TRUYỀN
Tháng 3 năm 2005, 142 đồng hương hiện định cư tại Hoa Kỳ và Úc Đại
Lợi đă tổ chức “Chuyến Đi Về Bến Tự Do 2005” để trở lại thăm Pulau
Bidong thuộc Liên bang Mả Lai Á và Galang thuộc Quần Đảo Nam Dương.
Phái đoàn 142 người nói đây đă dựng “Bia Đài Tri Ân và Tưởng Niệm”
tại hai Trại Tị Nạn để ghi ơn các cá nhơn, các tổ chức và các quốc
gia đă tận lực giúp đở thuyền nhân đồng thời để tưởng niệm thuyền
nhân qua đời trên đảo và bỏ ḿnh trong những chuyến vượt biển trốn
chạy chế độ cộng sản. Liền sau đó, Hà Nội phản ứng bằng cách tạo áp
lực với hai chánh phủ liên hệ để phá bỏ các Bia Đài. Cuồng vọng vô
thần, phi nhân của họ, tiếc thay, đă được các quốc gia liên hệ thỏa
măn.
Bây giờ, đất nước sắp rơi vào nanh vuốt của kẻ thù truyền kiếp phương bắc: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đă bị Hồ Chí Minh dâng cho Mao Trạch Đông vào năm 1958 để mua chịu vũ khí hiện đại nhằm tấn chiếm Miền Nam; trên dưới 700 cây số vuông dọc biên giới và trên dưới 10 ngàn cây số vuông hải phận đă bị CSVN dâng cho Trung cộng vào cuối năm 1999 và năm 2000; “China Town” ở Lạng Sơn và các nơi khác, các “làng người Tàu” mọc lên như nấm trên ba miền Đất Nước; Cao nguyên Trung Phần đă bị CSVN dâng cho Trung cộng để bọn này thiết lập căn cứ chiến lược hầu trấn áp, thôn tính không những các quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương mà c̣n cả Đông Nam Á nữa.
Trước hiểm họa mất nước gần kề, CSVN không đặt
trọng tâm đối phó bằng cách trở về với Dân Tộc mà lại đàn áp Dân Tộc
và gởi công hàm ngoại giao tháng 7 năm 2009 vận động chánh phủ Nam
Dương dẹp bỏ các di tích tị nạn (mồ mả, chùa chiền, nhà thờ…) trên
đảo Galang và tiếp tục ngụp lặn trong biển trầm luân “xă hội chủ
nghĩa” không bến bờ! CSVN vô thần không hề biết lời Phật dạy: “KHỔ
HẢI VÔ BIÊN, HỒI ĐẦU THỊ NGẠN” (Biển khổ minh mông, quay đầu thấy
bến”. Tại sao măi măi ĺa xa Bến Bờ Dân Tộc để phụng thờ 16 chữ vàng
vô nghĩa và lừa bịp? (“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng đến tương lai”).
Trong tháng 7 năm 2005, một người tên Minh Thúy đă gởi điện thư vào
các diễn đàn xuyên tạc lư do khiến đồng bào chúng ta liều chết trốn
chạy chế độ cộng sản: “Mọi người trên thế giới đừng quên rằng hàng
ngàn người Việt Nam ra đi bị chết ch́m trên biển là do mắc mưu lừa
đảo, tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút chạy khỏi Việt Nam. Người Mỹ
nói dối rằng VC sẽ tắm máu khi chúng vào Saigon. Nhưng thực tế th́
không phải vậy” (sic).
Sau đây xin có vài suy nghĩ về thái độ của CSVN đối với các Bia Đài,
Trại Tị Nạn Galang và ư đồ xuyên tạc lư do vượt biển của đồng bào
chúng ta.
Thật ra, không ai ngạc nhiên về cách ứng xử của
CSVN trước các Bia Đài và các Trại Tị Nạn. Tại sao? V́ CS mắc phải
hai chứng bịnh nan y: hận thù và sợ hăi!
Trước nhiều hành động của CSVN mà người có chút lương tri không bao
giờ dám làm, người ta phải tự hỏi: ‘Tại sao phải làm như thế?” Tại
sao sau khi chiếm xong Tổng Y Viện Cộng Ḥa, cán binh cộng sản tống
xuất các thương bệnh binh VNCH đang ở trong t́nh trạng nữa sống, nửa
chết? Tại sao “tập trung cải tạo” cả các vị sĩ quan mù cả đôi mắt
hoặc cụt cả một chân? Tại sao tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa
và các Nghĩa Trang Quân Đội tại các địa phương khác? Tại sao lại xua
trẻ vị thành niên Miền Nam ra chiến trường để làm bia đỡ đạn cho bộ
đội CS? Các hành động ác nhơn thất đức này chỉ có thể được giải
thích bằng hai chữ “trả thù”: CS trả thù người chết lẫn người sống
và trả thù luôn cả những ngựi đang hấp hối v́ tất cả những vị này
đă từng hy sinh hạnh phúc đời ḿnh để bảo vệ chánh nghĩa quốc gia,
chống tà thuyết vô thần CS.
Trở lại với các Bia Đài tại các Trại Tị Nạn. Các tấm bia ấy không
hàm chứa nội dung hằn hộc hoặc bôi nhọ chế độ cộng sản mà chỉ ghi
những hàng chữ tưởng niệm đồng bào đă qua đời trên đảo và chết thảm
trên biển cả cùng ghi ơn các tổ chức quốc tế và chánh phủ cùng công
dân các quốc gia đă hết ḷng giúp đở người Việt tị nạn. Thế tại sao
Hà Nội lại làm áp lực để các chánh phủ liên hệ triệt hạ các Bia Đài?
Tại sao lại vận động chánh phủ Nam Dương xóa bỏ mọi di tích của Trại
Tị Nạn Galang? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng bốn chữ:
“trả thù” và “sợ hải”: Hà Nội trả thù thuyền nhân v́ thuyền nhân đă
“bỏ phiếu bằng thuyền” không chấp nhận chế độ cộng sản vô thần! Hà
Nội sợ công luận thế giới lên án nên muốn xóa bỏ mọi chứng tích về
sự bạo tàn, vô nhơn đạo của họ mà các Bia Đài và các Trại Tị Nạn là
những chứng tích hùng hồn nhứt! Triệt hạ các Bia Đài, dẹp bỏ các di
tích tại các Trại Tị Nạn, Hà Nội đă thỏa mản được bản tính hận thù
và nghĩ rằng họ đă triệt tiêu được các chứng tích về tội ác của họ!
Việc CSVN làm áp lực để chánh phủ các quốc gia
liên hệ triệt hạ các Bia Đài và vận động Chánh phủ Nam Dương xóa
sạch các di tích tại Trại Tị Nạn Galang đă gây nên một ngọn “sống
thần câm phẩn” không những trong Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng
Sản mà cả trong đại khối đồng bào trong nước. Đối với công luận thế
giới, kể cả công dân của hai quốc gia liên hệ, phản ứng nói trên của
Hà Nội là phản ứng xuẩn động của bọn cường đồ, đáng bị khinh miệt!
Chuốc lấy những hậu quả tai hại nói trên, Hà Nội cũng không triệt
tiêu được chứng tích về tội ác của họ. Chứng tích đó không những
được nằm trên bia đá, tồn động tại các Trại Tị Nạn mà c̣n được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Đó là “bia miệng”. “Bia miệng” th́ không thể xóa bỏ hoặc phá hủy
được:
"Trăm năm bia đá cũng ṃn
Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ."
Các Bia Đài, các Trại Tị Nạn có thể c̣n hoặc không c̣n trên các đảo
Galang và Pilau Bidong, nhưng chắc chắn chúng sẽ măi măi nằm trong
ḷng người dân Việt thuộc mọi thế hệ v́ tội ác của csHN đă trở thành
những sự kiện lịch sử. Nếu CSVN có dũng khí, nhơn dịp 36 năm nh́n
lại, gởi công hàm ngoại giao cám ơn chánh phủ và công dân của hai
quốc gia liên hệ đă tận lực cứu giúp đồng bào và chỉ thị đại sứ của
họ tại Mă Lai và Nam Dương đến đặt ṿng hoa tưởng niệm và cúi đầu
trước các Bia Đài để bày tỏ ḷng sám hối của chế độ và xin các quốc
gia liên hệ trùng tu các Trại Tị Nạn th́, theo chúng tôi nghĩ, họ
lại có thể làm cho những người nhẹ dạ tin rằng họ thật sự ân hận về
sự tàn bạo của họ! Tiếc rằng họ không có cái dũng khí đó; họ chỉ có
can đảm ra lịnh cho công an biên pḥng rượt theo và xả súng máy để
“diệt gọn” các con tàu bất hạnh chở những ngựi dân bạc phước đang
t́m cách lánh xa ngục tù cộng sản! Bây giờ họ lại hèn hạ, đốn mạt
van xin chánh phủ Nam Dương a ṭng với họ xóa bỏ mọi di tích tại
trại tị nạn Galang. Nếu CSVN có tài ngoại giao “ưu việt” th́ hăy vận
động với chánh quyền Hoa Kỳ dẹp bỏ Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản
Tại Thủ Đô Hoa Thạnh Đốn, Tượng Đài Thuyền Nhân tại Westminster, vận
động với chánh phủ Canada dẹp bỏ Tượng Mẹ Bồng Con Trốn Chạy Chế Độ
Cộng Sản tại Ottawa và vận động chánh phủ nước Đức đập phá Tượng Đài
Tị nạn Hamburg.
B. Lư Do Vượt Biển Của Đồng Bào
Sau khi tạo áp lực để chánh phủ hai quốc gia liên hệ phá bỏ Bia Đài,
Hà Nội đi bước kế tiếp nhằm van xin chánh phủ Nam Dương xóa bỏ mọi
di tích tại Trại Tị Nạn Galang và sai cán bộ của họ xuyên tạc lư do
vượt biển đích thực của đồng bào: sự tàn bạo của chế độ.
Theo thông tấn xă Bermana, từ năm 1978 đến năm 1990, có 245,133
thuyền nhân đă tới đảo Pilau Bidong. Ngoài ra, c̣n phải kể nhiều
trăm ngàn đồng bào đă tới Nam Dương, Thái Lan, Úc Đại Lợi, Phi Luật
Tân, Hongkong, Tân Gia ba... Mặt khác, theo thống kê của Liên Hiệp
Quốc, khoảng 50% đồng bào vượt biển đă lấy đáy biển làm huyệt mộ.
Như vậy, đă có hàng trăm ngàn - chớ không phải chỉ có hàng ngàn -
“người Việt Nam ra đi bị chết ch́m trên biển”!
Tại sao đồng bào phải bỏ xứ mà đi để chết thảm trên biển cả?
Đồng bào Miền Bắc liều chết trốn chạy “thiên đàng xă nghĩa” qua ngả
Hongkong có bị “mắc mưu lừa đảo tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút
chạy khỏi Việt Nam” không? Họ có sợ bị “tắm máu khi VC vào Saigon”
không?
Dĩ nhiên là không bởi lẽ không có Mỹ ở Miền Bắc và không c̣n ai sợ
tắm máu nữa v́ c̣n máu đâu để mà tắm sau trên hai mươi năm đất Bắc
bị đảng CS thống trị với nào là “cải cách ruộng đất”, rồi lại “chánh
sách sửa sai”, nào là “đánh tư sản mại bản”, nào là “Nhân Văn Giai
Phẩm”, nào là “Quỳnh Lưu”, nào là “chỉnh phong”, nào là “cán bộ tập
kết phá bót cảnh sát Bờ Hồ”, nào là “Học sanh Nam bộ khởi loạn ở Ngă
Tư Sở” và biết bao là máu và nước mắt đă đổ trong trại Đầm Đùn và
các trại tù khổ sai khác!
Tại Miền Nam, theo thông tấn xă Bermana, đồng bào ồ ạt vượt biển
trong thời khoảng từ 1978 đến 1990. Trong khoảng thời gian nói đây,
Mỹ nào c̣n ở Việt Nam để mà “lừa đảo tuyên truyền”! Năm 1978 và các
năm kế tiếp, không phải v́ sợ tắm máu mà đồng bào vượt biển bởi lẽ
CSVN đă hoàn tất “nghiệp vụ tắm máu”: bao nhiêu doanh nhơn (Tư sản
mại bản) đă bị sát hại? Mấy trăm ngàn quân cán chánh VNCH (QCC) đă
bỏ ḿnh trong vùng rừng núi Bắc Việt? Bao nhiêu ngàn vợ con QCC đă
gục ngă tại các “vùng kinh tế mới”? Bao nhiêu ngàn con cái của QCC
đă làm bia đở đạn cho cán binh CS ở biên thùy phía bắc và tại biên
giới phương nam?
Không bị “Mỹ lừa đảo, tuyên truyền’, không sợ “tắm máu”, thế th́
điều ǵ đă đẩy đồng bào ra biển cả để chết thảm? Xin thưa: chế độ
cộng sản! Người viết xin nêu một sự kiện lịch sử để thấy rằng người
Việt Nam lúc nào cũng có thể vượt biển để t́m sanh lộ trong tử lộ.
Vượt biển hay không vượt biển, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sức
chịu đựng của đồng bào dưới chế độ họ đang sống.
Từ ngàn xưa, tiền nhơn chúng ta đă từng vượt biển để tránh bị tiêu
diệt. Đó là trường hợp của hậu duệ nhà Lư. Trưóc chánh sách “nhổ cỏ
phải nhổ tận gốc” của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lư đă phải liều chết
vượt biển sang Triều Tiên tị nạn. Lúc bấy giờ phương tiện vượt sóng
đâu có tối tân như ngày hôm nay. Nhưng ở lại chắc chắn phải chết;
liều mạng ra đi may ra có thể sống c̣n; thế là tiền nhân chúng ta
quyết định ra đi!
Thế nhưng:
- Dưới thời Bắc Thuộc, ngoài những h́nh phạt dă man, bọn Thái thú
Tàu c̣n khai thác sanh mạng của người dân để thủ lợi. Thế nhưng
người dân không hề vượt biển! Tại sao? V́, theo tôi nghĩ, c̣n có thể
chịu đựng được.
- Dưới thời Pháp Thuộc gần cả trăm năm, thực dân đă, đàn áp dă man
các cuộc khởi nghĩa của người quốc gia yêu nước. Thế nhưng người dân
không hề vượt biển! Tại sao? V́, theo tôi nghĩ, c̣n có thể chịu đựng
được.
- Dưới thời Nhựt chiếm đóng, bọn quân phiệt áp dụng những h́nh phạt
cực độc đối với người Việt. Thế nhưng người dân không hề vượt biển!
Tại sao? V́, theo tôi nghĩ, c̣n có thể chịu đựng được.
Thế tại sao:
- Sau khi Việt minh CS tiếp thu Miền Bắc, hàng triệu đồng bào đă gạt
lệ rời bỏ quê hương vào Miền Nam trốn chạy chế độ cộng sản?
- Sau khi CS cưởng chiếm Miền Nam, hàng triệu đồng bào đă liều chết
bỏ nước ra đi với tâm niệm: “Thà làm mồi cho thú dữ, thà bỏ thây nơi
rừng sâu núi thẫm, thà lấy biển cả làm huyệt mộ c̣n hơn phải sống
dưới chế độ cộng sản” để trở thành những người tù trừ bị, những tử
tội dự khuyết?
- Trong thời chiến trước năm 1975, nơi nào có bóng cờ máu của
“đảng”, đồng bào liều chết trốn chạy về hướng quốc kỳ Việt Nam Cộng
Ḥa?
Xin trả lời ba câu hỏi nêu trên: Tại v́ chế độ cộng sản bạo tàn, hà
khắc, sâu độc, nham hiểm, vô luân, ác nhơn, thất đức gấp vạn lần bọn
Tàu, bọn Pháp, bọn Nhựt. Toàn dân là những người tù dự khuyết, quần
chúng là thành phần tử tội trừ bị. Chính bọn công an c̣n lén lút sơn
trên vách nhà tập thể của chúng tại trại tù Z30A ở Long Khánh 8 chữ:
“Tù trong là ngụy, tù ngoài là ta!” mà một người bạn cựu tù nhân
chánh trị (HO) “trại viên” đă nhận lịnh chỉ huy trại kín đáo xóa 8
chữ “cực kỳ phản động” nói trên.
Nói khác đi, nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nhà tù
“vĩ đại”, trong đó có hằng hà sa số nhà tù nhỏ được xây cất kiên cố
trên khắp ba Miền đất nước!!!
Những người cộng sản vô thần trong Bắc Bộ Phủ tin rằng không có thiên đường địa ngục chi cả, chỉ có “thiên đường cộng sản” mà đồng bào chúng ta đang trốn chạy và không có một thế giới nào khác, ngoài “thế giới đại đồng” mà họ dùng xương máu đồng bào chúng ta để góp phần xây dựng! Đối với họ, chết là hết; sau cái chết là một khoảng trống vô tận, minh mông, mịt mù: “Après la mort, c’est le néant”. Với “đức tin” đó và với câu tâm niệm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” (La fin justifie les moyens), khi c̣n tại thế, họ làm mọi hành động, mà người hữu thần cho là ác nhơn thất đức, để thỏa măn dục vọng của họ: trả thù-báo oán, giết người-cướp của, diệt chồng-đoạt vợ. Họ không hề biết các thành ngữ “vô dục, cực lạc”, “tri túc thường lạc”.
Trong trường hợp các Bia Đài và các Trại Tị Nạn,
cứu cánh là che dấu tội ác của họ đối với dân tộc Việt Nam nói chung
và đối với thuyền nhân nói riêng; phương tiện xử dụng là xuyên tạc
lư do vượt biển của đồng bào chúng ta, xóa bỏ các di tích trong các
Trại Tị Nạn và triệt hạ các bia đài tưởng niệm, một hành động tương
tự như phá đ́nh, phá chùa, phá miểu.
Cả hai phương tiện đều xúc phạm hương linh của thuyền nhân chết trên
biển cả và qua đời trên hai Đảo. Nhưng cả hai phương tiện xử dụng
đều tỏ ra vô hiệu v́ như đă viết bên trên:
“Trăm năm bia đá cũng ṃn, Ngàn năm bia miệng
vẫn c̣n trơ trơ!”
Hồ Chí Minh đă đưa con thuyền Việt Nam vào “biển
khổ trầm luân xă hội chủ nghĩa” vô bến bờ. Nếu csvn tiếp tục ngụp
lặn trong biển trầm luân ấy th́ con thuyền Việt Nam sẽ trôi dạt vào
bến bờ “Đại Hán”.
Hăy quay về với Dân Tộc bằng cách: vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê, giải
thể đảng csvn, xé bỏ Hiến pháp năm 1992, ném bỏ 16 chữ vàng vô nghĩa
để c̣n thấy bến bờ hầu tránh đại họa do bọn bành trướng Bắc kinh
mang đến phủ trùm ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC. Đức Phật đă dạy, mà người
cộng sản vô thần làm sao biết được:
“Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn”
Lê Công Truyền
TQLC – KBC 3331
4 tháng 10 năm 2009
Những
ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Tập thơ của một
người lính mang tên... “ Chúc Thư”
Kỷ Niệm Ngày QL
19/6 - Người lính VNCH sau 37 năm nh́n lại...
Đă đến lúc
Việt Nam là của mọi người!
Nói tiếng Anh
Một chữ XẢ
Nỗi ḷng biết
ngỏ cùng ai?
Chỉ tại dấu
"Phẩy"...
Sự căm ghét Chủ
Nghĩa Cộng Sản
Những
hồn hoang nơi pháp trường cát!
Tôi c̣n Nợ...
Chuyện Mũ
Xanh... quanh bàn tṛn
Chuyện đời
Ma thuật của
bọn cuồng sát
Tâm Tình xin
gởi đến toàn thể Anh Chị Cựu Quân Nhân QLVNCH
Nghị quyết 36: Phân
tích và nhận định
Chúng ta là
ai... và chúng ta phải làm ǵ?
Hăy tôn
trọng những người nằm xuống
Người đồng minh
dũng cảm
Đồng Tiền và Chính
Nghĩa
Cảm nghĩ của thế
hệ thứ hai
Người
lính miền Nam và cuộc chiến cũ
Bia tưởng niệm ở
trại tị nạn
Bản chất và hiện
tượng của cs
Tác dụng của nghị
quyết 36
Phê b́nh
một đóng góp cho tiến bộ
Đă đến lúc
Thực chất cuộc
chiến 1955-1975 tại Việt Nam
Chiến thuật kiều vận