MX Lê Công Truyền
“Apprenez que tout flatteur
“Vit aux depens de celui qui l’écoute”
(Jean de La Fontaine trong bài ngụ ngôn “Le Corbeau et le Renard”)
Văn hào người Nga Alexandre Solzenitsyne, người có quá nhiều kinh
nghiệm với Cộng Sản (CS), đă viết: “Đi xe đạp từ mặt đất lên cung
trăng c̣n dễ hơn là làm cho CS từ bỏ bạo lực và thay đổi tư duy”.
Raymond Aron, một học giả nổi tiếng người Pháp, đă nhận định: “Tại
Nga Sô, sự lừa bịp được định chế hóa. Nhà cầm quyền phải luôn luôn
bóp méo sự thật để quần chúng không nh́n thấy CS là một con quái vật
khát máu mang tên xă hội chủ nghĩa.”
Tục ngữ có câu “Rau nào sâu nấy”, “Thầy nào, tớ nấy”. Hồ chí Minh đă
nhận Lénine là “ Bậc thầy vĩ đại” và đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN)
là con đẻ của đảng CS Nga Sô, th́ bạo lực và lừa bịp nhất định phải
là “bản chất” của đảng ấy. Điểm qua cuộc đời trên 3/4 thế kỷ của
đảng CSVN, người ta thấy “bản chất” của đảng này thật sự bất biến và
cấu tạo bởi nhiều thành tố do di truyền từ đảng CS Nga Sô: bạo lực,
hận thù, gian dối, độc tôn….. .Người ta có thể nói bạo lực, hận thù,
lừa bịp, độc tôn là thánh kinh, là da thịt, là xương tủy, là huyết
mạch, là tim óc, là văn hóa của CSVN.
“Bản chất” của CSVN là như thế ấy . Nhưng khi cảm thấy lâm nguy hoặc
khi tự nhận ở thế yếu, hoặc khi muốn ru ngủ đồng bào trước một vấn
đề ǵ, CSVN liền thi triển những “hư chiêu”, tŕnh diễn những “hiện
tượng”, đưa ra những chiêu bài để lừa dối dân chúng. Một “hiện
tượng” khá ồn ào được CSVN tŕnh diễn trong tháng 3 vừa qua và các
tháng kế tiếp : Nghị quyết số 36-NQ/TU “ Về Công Tác Đối Với Người
Việt Ở Nước Ngoài” do Bộ Chính Trị đảng CSVN ban hành ngày
26/3/2004.
Trong bài viết này, trước hết xin bàn về bản chất của CSVN và các
hiện tượng mà đảng ấy đă thi triển trước khi nghị quyết nói trên
được ban hành; sau đó sẽ thử phân tích vở kịch “Con Quạ Với Con
Chồn” được che dấu dưới cái gọi là Nghị Quyết 36. (NQ 36)
I. BẢN CHẤT CỦA CSVN.
“Bản chất” có tính cách bất biến, không sao thay đổi hoặc sửa đổi
được.
“Bản chất” của CSVN, như trên đă viết, được cấu tạo bởi nhiều thành
tố: lừa bịp, bạo lực, hận thù, độc tôn...Chính 3 thành tố sau đă
nung đúc tính hiếu sát của CSVN: dùng bạo lực để thỏa măn hận thù,
dùng bạo lực để tận diệt đối lập hầu nắm quyền thống trị đất nước và
khống chế dân tộc. Ở đây, người viết dùng nhóm chữ “thống trị” và
“khống chế” v́ lẽ “trách nhiệm quản trị đất nước” và “bổn phận đối
với dân tộc” là những ư niệm c̣n quá xa lạ đối với CSVN.
Sau đây, xin ghi lại một số sự kiện để chứng minh những điều vừa
nêu.
*Tàn sát Người Quốc Gia Yêu Nước ngay trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp
Đảng viên Đại Việt, Việt Quốc,Việt Cách, Dân Xă Đảng (Phật Giáo Ḥa
Hảo), Phong Trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế (Cao Đài Giáo), Đệ Tứ
Quốc Tế... đă từng là nạn nhân của những cuộc thảm sát do CSVN thực
hiện. Sở dĩ CSVN ra sức tiêu diệt các
đảng-phái-chống-Pháp-nhưng-không-theo-họ v́ họ thừa biết rằng sau Đệ
nhị Thế chiến, chế độ thuộc địa nhất định sẽ phải cáo chung; do đó ,
họ có nhu cầu tiêu diệt các đảng phái quốc gia trước khi đánh Pháp;
sau khi triệt hạ các đảng phái quốc gia, họ sẽ giương cao “ngọn cờ
dân tộc” giả hiệu để lừa bịp đồng bào và chiếm lĩnh “độc quyền kháng
chiến” với sự tiếp tay góp sức của đại khối dân tộc!
*Tàn sát cả một làng Láng Linh mà cư dân là tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo
(1947)
Vụ thảm sát này bắt nguồn ở chỗ Phật Giáo Ḥa Hảo kháng chiến chống
Pháp nhưng chống luôn cả Việt Minh Cộng Sản (VMCS). Sau đây, xin
trích một đoạn trong quyển “Thiên Đàng Treo” của nhà văn Xuân Vũ,
người đă chứng kiến tận mắt vụ thảm sát (o).
*Tàn sát hàng vạn nông dân vô tội với chính sách cải cách ruộng đất
ở miền Bắc (1956)
Đây là một chính sách do Trung Cộng chỉ đạo và CSVN thi hành. Bề
ngoài, chính sách nhằm hữu sản hóa nông dân bằng cách giết địa chủ
để lấy đất chia cho nông dân. Nhưng với chính sách thuế khóa theo
lối “b́nh nghị”, nông dân trở thành nô lệ của đảng CSVN. Ngoài ra,
nó c̣n có tác dụng tiêu diệt các giai tầøng thù nghịch của giới vô
sản để thỏa măn ḷng “hận thù giai cấp” của người CS.
*Tàn sát hàng vạn đồng bào tại cố đô Huế hồi Tết Mậu Thân (1968)
Vụ tàn sát tập thể, có hệ thống nói đây cũng bắt nguồn từ ḷng hận
thù và được thực hiện qua ngón nghề lừa bịp cố hữu của CSVN. Họ hận
thù v́ đồng bào đă không “tổng nổi dậy” như họ dự trù. Họ lừa bịp
đồng bào bằng cách dùng đồng bào ra tŕnh diện để chiêu dụ những
người c̣n lẩn trốn: sau khi tŕnh diện, đồng bào được họ cho về và
được yêu cầu tŕnh diện mỗi ngày. Những người c̣n lẩn trốn thấy láng
giềng của ḿnh an toàn khi ra tŕnh diện, không c̣n e dè sợ hăi nữa
và hăng hái ra tŕnh diện “cách mạng”. Khi thấy không c̣n ai ra
tŕnh diện thêm nữa, họ ra lệnh cho đồng bào đào hầm để tránh pháo
kích và không tập của “Mỹ Ngụy”: đồng bào đâu có ngờ rằng ḿnh đang
đào mồ chôn tập thể cho chính ḿnh và bè bạn!
*Tàn sát trẻ thơ vô tội
Sau khi hiệp định đ́nh chiến kư kết tại Paris có hiệu lực, CSVN vẫn
tiếp tục pháo kích và họ đă pháo kích vào các trường học để tàn sát
trẻ thơ vô tội; điển h́nh là trường tiểu học Cai Lậy và Song Phú
(1974). Họ tàn sát trẻ thơ vô tội để trừng phạt và trả thù v́ phụ
huynh học sinh vẫn tiếp tục cho con em đi học, không tuân hành lệnh
băi khóa của họ.
*Tàn sát dân làng Tân Lập, Long Khánh
Sư Đoàn 18 BB và các đơn vị thuộc các quân binh chủng Việt Nam Cộng
Ḥa (VNCH) cùng với dân quân cán chính Long Khánh đă anh dũng chận
đứng sức tiến quân của CS, khiến cả mấy trung đoàn của họ bị tiêu
diệt. Do đó, sau khi làm chủ t́nh h́nh, họ ra tay tàn sát dân làng
Tân Lập để rửa hận cho mấy ngàn bộ đội “sinh Bắc tử Nam” của họ
(1975).
*Trả thù thương bệnh binh VNCH tại Tổng Y Viện Cộng ḥa và các quân
y viện địa phương.
Sau khi chiếm được Tổng Y Viện Cộng Ḥa và các quân y viện địa
phương, bộ đội CS đă tống xuất các thương bệnh binh VNCH mặc dù các
anh em này đang được tiếp huyệt và vô nước biển. Trưa ngày 30/4/75,
nếu đi trên lộ tŕnh từ ngă tư Phú Nhuận đến tổng Y Viện Cộng Ḥa,
chúng ta không sao cầm được nước mắt khi thấy anh em thương bệnh
binh của chúng ta thất tha thất thểu trên đường Vơ Di Nguy với túi
máu hoặc nước biển trên tay. Không có một sự trả thù nào tàn nhẫn và
vô nhân đạo hơn! (1975)
*Trả thù cả những người đă khuất.
Mồ mả của tử sĩ VNCH tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa và các nghĩa
trang quân đội tại các tỉnh đă bị CSVN t́m cách phá nát, có nơi bị
san thành b́nh địa. Tại sao phải làm thế ?Họ muốn trả thù cả những
người đă chết. Không có một vụ trả thù nào hèn hạ và ghê tởm hơn!
*Trả thù các chiến sĩ VNCH sa cơ thất thế.
Sau ngày 30/4/75, CSVN đă tập trung Quân cán chính VNCH vào các trại
tù khổ sai để sỉ nhục, đày đọa. Hàng vạn người đă bị sát hại bằng
nhiều cách: xử tử, bỏ đói cho đến chết; bệnh, không được chữa trị;
chết v́ kiệt sức…….. .Có những chiến sĩ VNCH mù cả đôi mắt hoặc bị
cưa chân vẫn bị tập trung “cải tạo”. Quả đúng là một cuộc trả thù
tàn bạo và đốn mạt!
*Trả thù vợ con các chiến sĩ VNCH đang bị tập trung “cải tạo”.
Các “vùng kinh tế mới” được họ dựng lên để đày ải vợ con của các
chiến sĩ VNCH đang bị họ cưỡng bách lao động trong các trại tù khổ
sai. Họ bịp rằng vợ con “tù cải tạo” chấp nhận “đăng kư” đi “kinh tế
mới”, chồng cha sẽ sớm được trả tự do. Ai không t́nh nguyện “đăng
kư”, họ sẽ có biện pháp cưỡng bách. Đi “vùng kinh tế mới” tức là mất
nhà, mất cửa. Xin hăy nghe và nhớ suốt kiếp lời nói của một tên cộng
sản trong cái gọi là “Uûy Ban Quân Quản” thành phố mang tên xác
chết:” Nhà chúng nó, ta cấp cho cán binh ta ở; con chúng nó, ta đưa
ra chiến trường làm bia đỡ đạn cho bộ đội ta; vợ chúng nó, ta chơi
tùy hứng.” Nhớ suốt kiếp để không bao giờ nghe những lời ngon ngọt
của CSVN, nhất là không bao giờ hưởng ứng cái NQ 36 của họ.
*Triệt tiêu tư sản mại bản
Đây là một h́nh thức cướp ngày của lũ “mafia đỏ”. Là một vụ cướp sát
nhân, chiến dịch đánh tư sản mại bản đă giết hại không biết bao
nhiêu là “kẻ thù của giai cấp vô sản”
*Tống xuất đồng bào ra biển cả.
Chính sách cai trị tàn độc của CSVN đă đẩy hàng triệu đồng bào ra
biển cả để làm mồi cho hải tặc và sóng thần Biển Đông. Trong số hàng
triệu người trốn chạy chế độ CS, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc,
phân nửa đă đến bến bờ tự do, c̣n phân nửa kia đă lấy biển cả làm
huyệt mộ. Bao nhiêu thiếu nữ Miền Nam đă bị hải tặc làm nhục rồi
mang vào nội địa Thái Lan bán cho các động măi dâm?
*Dung túng việc xuất cảng trẻ thơ, thiếu nữ Miền Nam làm nô lệ t́nh
dục cho ngoại bang.
CSVN có đầy đủ phương tiện và phương cách ngăn chặn việc xuất cảng
trẻ thơ và thiếu nữ để làm nô lệ t́nh dục cho ngoại bang. Nhưng họ
không làm, v́ ngăn chận sẽ làm họ mất đi một nguồn ngoại tệ đáng kể.
Vả lại, họ c̣n phải sử dụng những phương tiện và phương cách nói
trên trong việc đàn áp tôn giáo và đối phó với các phong trào đ̣i
dân chủ và nhân quyền cho đất nước. Việc dung túng nói trên cũng là
một cách trả thù người dân Miền Nam v́ CSVN coi toàn dân Miền Nam –
trừ bọn nằm vùng – là “ngụy dân”, có cái “tội” hiệp lực cùng chính
quyền VNCH ngăn chặn nỗ lực thôn tính Miền Nam của họ trên dưới 20
năm.
Bảng liệt kê tội ác của CSVN vừa được tŕnh bày, tuy có quá nhiều
thiếu sót, nhưng cũng tạm đủ để cho thấy trong 75 năm qua, họ đă
không ngớt dùng bạo lực và mọi phương cách để thỏa măn hận thù và
độc chiếm chính trường Việt Nam.
II. HIỆN TƯỢNG VÀ CHIÊU BÀI TRONG CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN HÀ NỘI
Không như “bản chất”, “hiện tượng” có tính cách biến đổi, nay thế
này, mai thế khác, tùy hoàn cảnh. Đừng quá ngây thơ để lầm lẫn “hiện
tượng” với “bản chất”, một sự lầm lẫn với nhiều hậu quả tai hại đến
mức không lường trước được. CSVN luôn luôn thi triển những “hư
chiêu”, tŕnh diễn hoặc đạo diễn những “hiện tượng”, đưa ra những
chiêu bài để che dấu những điều họ muốn che dấu và nhất là để lừa
bịp những người nhẹ dạ, dễ tin và làm cho những người này quên đi
cái “bản chất” cố hữu của họ hầu tiếp tay với họ để cứu đảng, cứu
chế độ bạo tàn của họ. Vài năm gần đây, các “hiện tượng” được tŕnh
diễn khá nhiều với các chiêu bài nào là “bộ phận máu thịt của dân
tộc VN” (1), nào là “khúc ruột ngoài ngàn dặm”, nào là “xóa bỏ hận
thù”, nào là “khép lại quá khứ”, nào là “tiến tới tương lai”, nào
là”ḥa hợp dân tộc”, nào là “đại đoàn kết dân tộc”...Thật ra, những
khẩu hiệu này chỉ là tiếng kêu của con thần đanh đỏ mỏ, báo hiệu
ngày tàn của một chế độ phi nhân. Tuy nhiên nếu chúng ta cả tin và
hưởng ứng tiếng kêu của con thần đanh đỏ mỏ th́ chế độ phi nhân ấy
sẽ kéo dài và Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh hạt của Trung Cộng!
Nhất định chúng ta không tin và phải thấy rằng đó chỉ là những “hiện
tượng”, những chiêu bài chứ không phải”bản chất” của CSVN. Sau đây,
xin điểm qua các chiêu bài (!) ghi trên:
*Khúc ruột ngoài ngàn dặm, Bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam.
Các nhóm chữ này khiến người viết chạnh nhớ tới lời chửi bới thô bỉ
của CSVN dành cho khối người Việt trốn chạy chế độ CS : bọn ma cô đĩ
điếm, liếm gót giày đế quốc Mỹ, bọn bán nước, rác rưởi hôi tanh...
Ai thực sự là ma cô đĩ điếm? T́nh trạng xă hội băng hoại của cái
nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với “nghiệp vụ” xuất cảng
trẻ thơ để làm nô lệ t́nh dục cho ngoại bang hầu vơ vét ngoại tệ về
cho đảng đă cho ta thấy rơ ai là bọn ma cô đĩ điếm!
Ai liếm gót giày đế quốc, ai bán nước? Chính bọn kư và phê chuẩn các
hiệp định dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng vào cuối năm 1999 và
năm 2000!
*Xóa bỏ hận thù
Chắc chúng ta ai ai cũng c̣n nhớ câu kinh nhật tụng của Việt Cộng
trong các trại tù khổ sai mang mỹ từ “trại cải tạo” :Tội ác của các
anh trời không dung đất không tha, cách mạng thù các anh đến muôn
đời.
Thế nào là tội ác? Hy sinh xương máu, hy sinh hạnh phúc bản thân để
bảo vệ đất nước chống bọn tay sai cộng sản đệ tam không phải là tội
ác. Đảng viên cao cấp hiếp dâm trẻ thơ đáng tuổi cháu ngoại, cháu
nội ḿnh, rồi dùng tiền tham nhũng để mong chạy tội mới là tội ác!
(2). Dùng quyền lực để cưỡng dâm một “thiếu nữ miền cao”, rồi cho
thuộc hạ thủ tiêu bằng một tai nạn xe hơi mới là tội ác!(3). Dâng
đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp mới là tội ác!
*Quên và khép lại quá khứ để nh́n về tương lai.
CSVN kêu gọi người Việt hải ngoại quên và khép lại quá khứ! Quá khứ
của ai? Và quá khứ nào?
VNCH và CSVN đều có cùng chung một quá khứ, nhưng ở hai phương vị
khác nhau : nạn nhân và kẻ sát nhân, người bị cướp và kẻ cướp, người
yêu-nước-là-thương-dân và kẻ yêu-nước-là-yêu-xă-hội-chủ-nghĩa, người
bảo-vệ-tổ-quốc và kẻ dâng-đất-cho-Tàu...
Cái quá khứ mà CSVN kêu gọi “khép lại” chính là cái quá khứ đầy tội
ác mà họ đă làm kể từ khi Staline, tên đồ tể của đảng CS Nga Sô,
thai nghén ra đảng CSVN! Một phần rất nhỏ những tội ác nói đây đă
được đề cập trong Phần I viết về “Bản chất” của CSVN.
CSVN kêu gọi chúng ta “hăy quên quá khứ” để nhập nhằng làm cho công
luận nghĩ rằng chúng ta tiếp tục chống cộng v́ chúng ta “cố chấp và
giận lâu”(4). Sai. Hoàn toàn sai! Chúng ta tiếp tục chống CSVN v́ họ
tiếp tục tái diễn những tội ác mà họ đă phạm trong quá khứ.
CSVN mong muốn chúng ta quên quá khứ, quên những nỗi đau thương mà
họ đă giáng lên đầu lên cổ dân tộc để họ dễ bề tái diễn những ǵ họ
đă làm trong quá khứ. Cố Thủ tướng Anh quốc Winston Churchill, lúc
sinh thời, đă cảnh giác:” Những ai không thuộc lịch sử hay quên lịch
sử sẽ mang cái tội là làm cho nó tái diễn”. Vả lại, quá khứ không
phải là gió thoảng, mây bay; nó vẫn c̣n nguyên vị trong tâm thức
chúng ta, không sao quên được. Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, ta rơi
vào cái bẫy sạâp của bạo quyền CS. André Malraux rất có lư khi ông
viết:” Cần nuôi chút lửa bất măn để tiếp tục chiến đấu”. Trường hợp
của chúng ta, nếu quên quá khứ, quên hận thù, chúng ta sẽ không c̣n
động lực để chiến đấu nghĩa là chấp nhận để CSVN tiếp tục thống trị
đất nước và trấn áp dân tộc bằng chính sách cai trị bạo tàn mà họ
học hỏi được từ hai tên đồ tể trong khối CS quốc tế: Staline và Mao
Trạch Đông. Quá khứ ,hận thù nói đâykhông phải quá khứ hận thù của
riêng ai mà là quá khứ hận thù của đất nước và của dân tộc đang bị
“chủ nghĩa tam vô” thôn tính. Tư thù, có thể quên; quốc thù không
thể quên; quên là đắc tội với tiền nhân.
Mặt khác, quá khứ, hiện tại và tương lai là ba giai đoạn của đời
người, của một chế độ. Hiện tại nối dài quá khứ và chuẩn bị cho
tương lai. Với CSVN, như chúng ta đă chứng kiến, quá khứ và hiện tại
không có ǵ khác nhau: vẫn hận thù và hận thù! Vẫn khủng bố và khủng
bố! Vẫn lừa bịp và lừa bịp! Rồi đây hiện tại sẽ trở thành quá khứ và
tương lai sẽ là hiện tại, cứ thế ”bánh xe tiến hóa”
quá-khứ-hiện-tại-tương-lai quay đều để nghiền nát mọi hy vọng vươn
lên của dân tộc! Chừng nào cái “bánh xe tiến hóa” đó bị một đại động
đập tan, chừng đó chúng ta hoặc con cháu chúng ta mới có dịp nh́n về
một tương lai huy hoàng để tiến lên.
*Ḥa hợp và đại đoàn kết dân tộc.
Đó là những chiêu bài mà CSVN hô cho sướng miệng để lừa bịp những
người không CS nhưng lại dễ tin CS, dễ tin CS v́ không chịu “nh́n kỹ
những ǵ CS làm” mà chỉ” nghe những ǵ CS nói”. Thật vậy, trọng tâm
của chủ nghĩa CS là đấu tranh giai cấp, là vô sản chuyên chính, là
điễu-4-hiến-pháp. Đă là vô sản chuyên chính và đấu tranh giai cấp ,
được tô đậm bởi điều-4-hiến-pháp th́ làm thế nào có thể dung nhận
đối lập được. Lenine đă khẳng định:” Ai không theo ta là chống ta và
ai chống ta sẽ phải chết”(5). Không dung nhận đối lập th́ làm thế
nào chấp nhận đa nguyên, đa đảng! Không chấp nhận đa nguyên đa đảng
và chủ trương diệt đối lập th́ làm thế nào ḥa hợp và đại đoàn kết
dân tộc được! Như vậy, “đại đoàn kết dân tộc” theo kiểu CS khác với
“đại đoàn kết dân tộc” của người quốc gia . Người quốc gia quan
niệm”đại đoàn kết dân tộc” là “cộng đồng đồng tiến”; không có giai
cấp nào”chuyên chính “cả; nói khác đi, các tầng lớp trong xă hội
giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến trong ư niệm “kẻ có cho người không
có” chứ không phải” kẻ không có giết người có để có”! Theo CSVN, đại
đoàn kết dân tộc phải được hiểu như sau:”Khúc ruột ngoài ngàn dặm có
bổn phận mang chất xám và ngoại tệ về để cùng với bọn phản động
trong nước phủ phục dưới chân đảng ta và sẵn sàng hô to “Đảng CS
muôn năm”, rồi sau đó phải tuyệt đối im hơi lặng tiếng, đảng ban
phát cho cái ǵ th́ hưởng cái nấy, không được đ̣i hỏi, không được
chống đối, nếu không sẽ được cho là những tên gián điệp cực kỳ nguy
hiểm hoặc những tên lợi dụng dânchủ.(6).
III . NGHỊ QUYẾT SỐ 36-NQ/TU NGÀY 26/3/2004 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ ĐẢNG
CSVN
Sau chuyến Mỹ du hồi tháng 6/2003, viên Thứ trưởng thường trực Bộ
Ngoại giao CSVN trở về nước và tuyên bố:” Trong thời gian tới, cần
quán triệt tinh thần chủ động, sẵn sàng đối thoại thẳng thắn và xây
dựng với những bước đi và biện pháp cụ thể, thực hiện chủ trương ḥa
hợp dân tộc, khép lại quá khứ, tiến tới tương lai……….. .”
Chín tháng sau đó, vào ngày 26/3/2004, Bộ Chính Trị đảng CSVN ban
hành Nghị quyết 36 về “Công Tác Đối Với Người Việt Nam Ở Nước
Ngoài”. Thật ra, nghị quyết này chẳng có điều ǵ mới mẻ ngoài tính
cách ồn ào và công khai của nó. Thật vậy, ngay từ đầu thập niên 90,
và có lẽ trước đó nữa, CSVN đă bắt đầu chú ư đến sự thành công vượt
bực tại hải ngoại của hàng triệu người mà trước kia họ dán cho nhiều
nhăn hiệu như “ma cô, đĩ điếm, bọn bán nước, bọn liếm gót giày đế
quốc Mỹ, rác rưởi hôi tanh….. ” Với quyển “Về Người Việt Định Cư Tại
Nước Ngoài” của Nguyễn Ngọc Hà, Trưởng ban Việt Kiều, thống thuộc
Trung ương Đảng, VC đă đề ra kế hoạch chiêu du ïCộng đồng Người Việt
Hải Ngoại . Vào đầu năm 1999, Thủ tướng VC Phan Văn Khải kư quyết
định số 210/1999/QĐ-TTg cũng cùng mục đích nói trên. Đến năm 2001,
Phó thủ tướng VC Nguyễn Mạnh Cầm kư quyết định số 114/2001/QĐ-TTg,
bổ sung và chi tiết hóa quyết định số 210/1999 nói trên nhằm chiêu
dụ “bọn rác rưởi, hôi tanh” đem đồng tiền thơm phưng phức của
“chúng” về dâng cho Đảng! Để phát động chiến dịch chiêu dụ nói trên,
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam của Phạm Thế Duyệt và Uûy Ban Về Người
Việt Nam Ở Nước Ngoài do Nguyễn Đ́nh Bin, Thứ trưởng thường trực Bộ
ngoại giao VC làm chủ tịch, đă cho ra đời Uûy Ban Vận Động Thành Lập
Hội Liên Lạc Người Việt Nam Ở Nước Ngoài. Uûy ban này đă bắt đầu
hoạt động từ ngày 23-4-2001.
Sau đây người viết xin đề cập:
A.Nội dung của NQ 36
B.Tác dụng của NQ 36
C.Cảnh giác của Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại
A. Nội dung của NQ 36
Một điểm khá “lư thú” cần nêu ở đây trước khi bàn về nội dung của
NQ. Đó là chiêu bài “đại đoàn kết dân tộc” được nhắc đi nhắc lại ít
nhất là 5 lần trong bản NQ. Chiêu bài này Hồ Chí Minh đă từng sử
dụng vào năm 1946 khi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia và
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. “Đại đoàn kết dân tộc” được
thực thi thế nào mà Cố vấn Tối cao Vĩnh Thụy, Phó chủ tịch Nguyễn
Hải Thần, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam phải t́m đường lưu
vong? Người viết đă đề cập chiêu bài này trong phần II (Hiện tượng
và Chiêu bài trong chế độ CSVN).
Nghị Quyết 36 gồm có 4 phần:
1.T́nh h́nh và công tác đối với người VN ở nước ngoài thời gian
qua
Trong đoạn đầu của phần 1, NQ “kiểm kê tài sản” của Cộng Đồng Người
Việt Hải Ngoại:”Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực
kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghịêp, tổ chức
kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng t́m kiếm đối tác và làm
cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có
tŕnh độ học vấn và chuyên môn cao, một số người giữ vị trí quan
trọng trong các cơ quan, cơ sở nghiên cứu ,đào tạo, các công ty và
tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế,
khoa học ở nước sở tại”.
Thử hỏi những thành phần của “cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”
không vượt thoát khỏi sự kềm kẹp của CSVN để sống tại các nước có tự
do, có dân chủ, có nhân quyền th́ cộng đồng đó có được những điều
tốt đẹp như NQ 36 đă muối mặt mô tả hay không ?
Đoạn giữa của phần 1 chứa nhiều “hầm chông”, được ngụy trang bằng
“hoa thơm cỏ lạ”, chứ không phải bằng “rác rưởi hôi tanh”. Xin quan
sát các “hoa thơm có lạ” dưới đây, nhưng phải đề cao cảnh giác v́
dưới lớp hoa lá đó là những ”hầm chông tẩm thuốc độc”:
-Mặc dù sống xa tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh
thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ ǵn truyền thống văn hóa và hướng
về cội nguồn, ḍng tộc, gắn bó với gia đ́nh, quê hương.”
Vâng, người Việt tỵ nạn CS sống xa tổ quốc. Tổ quốc nói đây là Tổ
Quốc Việt Nam, chứ không phải cái “Tổ quốc xă nghĩa” của VC!. Tinh
thần yêu nước của người Việt tỵ nạn CS nằm trong ư niệm “yêu nước là
thương dân” chứ không phải là “yêu nước là yêu XHCN”. Người Việt tỵ
nạn CS giữ ǵn truyền thống văn hóa, văn hóa nói đây là văn hóa với
“nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chứ không phải thứ văn hóa vô thần đầy
hận thù và gian dối!
-“Đồng bào bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại
đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước”
“Công cuộc đổi mới” do CSVN thực hiện chỉ đem lại kết quả là sự cách
biệt giữa người nghèo và kẻ giàu ngày càng sâu đậm hơn. Trên dưới 30
năm thống trị miền Nam, CSVN vẫn c̣n t́m biện pháp “xóa đói giảm
nghèo”. Càng đổi mới, số vụ tham nhũng càng tăng, các ổ măi dâm càng
nhiều, các nghiệp vụ với chữ “ôm” theo sau càng bành trướng, ma túy
càng dễ mua...Thử hỏi “đổi mới” theo kiểu đó, ai là người yêu nước
lại chẳng động ḷng, ai là người có liêm sỉ lại dám “hoan nghênh”!
Ai là người có óc thông minh dưới trung b́nh chút đỉnh cũng không
thể hoan nghênh “chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc” theo kiểu của
VC. Chính sách này đă được nói nhiều ở phần trên của bài này.
Cũng ở đoạn giữa của phần 1 này, NQ đă nêu lên những điều không đúng
sự thật:
-“Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt
thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến,
mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước”.
Phần trên,người viết đă bàn nhiều về “công cuộc đổi mới”. Ở đây chỉ
cần nhắc một điều: cái thời dấu diếm, che đậy, bưng bít để lừa bịp
đă qua lâu rồi. Ngày nay, nhất động, nhất tĩnh xẩy ra trong nước,
“bọn bán nước, liếm gót giày đế quốc Mỹ” ở hải ngoại đều biết và
biết rất rơ, rất đúng. Chỉ tội cho đồng bào quốc nội, giờ này vẫn
c̣n bị bưng bít và lừa bịp.
-Một số ít người đi ngược lại lợi ích của dân tộc, ra sức chống phá
đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và VN”
CSVN có cái tật, đến chết cũng không bỏ được. Đó là tự đồng hóa ḿnh
với đất nước và dân tộc.. Không phải “một ít người” mà đại khối đồng
bào ở hải ngoại đều chống đảng CSVN chứ không hề “đi ngược lại lợi
ích chung của dân tộc”. Đại khối đó không “ra sức chống phá đất
nước” mà nỗ lực t́m phương cách tiêu diệt CS đang tàn phá đất nước.
Đại khối đó không “phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với
VN” mà vận động với các đại diện dân cử của các nước sở tại để họ
thấy sự tàn bạo, phản dân chủ, chà đạp nhân quyền của đảng CSVN để
họ hợp tác với dân tộc VN trong việc khôi phục tự do, dân chủ và
nhân quyền cho VN, đồng thời tạo áp lực để chính phủ của họ chấm dứt
viện trợ cho chế độ phi nhân đang trấn áp dân tộc VN.
-“Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng và đất nước, là rất lớn và
trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng.”
Khi VC đặt vấn đề “giao lưu văn hóa”, họ đă mặc nhiên công nhận có
hai nền văn hóa: văn hóa quốc nội mà cốt lơi là chủ nghĩa Mác Lê và
tư tưởng Hồ Chí Minh và văn hóa hải ngoại đặt trên chủ nghĩa Quốc
gia Dân tộc. Vấn đề giao lưu văn hóa đă được VC nói tới từ lâu và
trên thực tế đă được thực thi nhưng chỉ có một chiều. Như vậy, khi
cho rằng nhu cầu giao lưu văn hóa giữa quốc nội và hải ngoại “trở
nên bức thiết” phải chăng VC đă tỏ ra nóng ḷng trong việc nhuộm đỏ
văn hóa hải ngoại bằng văn hóa Marxist? Người xưa đă dạy: Văn Hóa
c̣n, Dân Tộc c̣n. Như vậy ta có thể nói, Văn hóa Marxist c̣n, chế độ
CS c̣n. Chế độ CS c̣n, Dân Tộc VN c̣n điêu đứng!
-“Nhu cầu giữ ǵn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất
lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng”
Cách đây 30 năm, cụ Bùi Vân Bảo, một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một
nhà giáo lăo thành định cư tại Canada, đă có hai câu đối nhằm khuyên
phụ huynh chú ư đến việc dạy con em học và nói tiếng Việt:
Chỉ sợ đàn con quên tiếng Việt
Đừng lo lũ trẻ dốt Anh văn
Sau đó, Cụ đă soạn vần Việt ngữ cho trẻ em. Vào năm 1978, Cụ đă bỏ
công sức sưu tầm, chú thích và xuất bản hai tập Thi Ca Cổ Điển. Dần
dần về sau nhiều Trung tâm dạy Việt ngữ đă khai giảng tại các tiểu
bang, nhất là tại California và miền Đông Hoa Kỳ. Ngoài ra, các khóa
tu nghiệp sư phạm cũng đă được tổ chức. Mới đây, khóa thứ 16, với
chủ đề “ Trách Nhiệm Chung Của Người Việt Hải Ngoại Trong Việc Bảo
Tồn – Phát Triển Ngôn Ngữ Và Văn Hóa Việt”, đă được khai giảng ngày
6-8-2004 với 172 khóa sinh của 42 Trung Tâm Việt Ngữ khắp nơi đổ về
miền Nam California. Trong buổi lễ bế giảng ngày 8-8-2004, ban tổ
chức khóa tu nghiệp đă giới thiệu bộ sách giáo khoa đă được ban đại
diện các Trung tâm Việt ngữ ấn hành. Đây là một bộ sách căn bản,
được soạn rất công phu, có sự kết hợp giữa phương pháp giảng dạy
khoa học và nội dung phong phú đầy tinh thần dân tộc (Người Việt
online, ngày 9-8-2004)
Như vậy, bảo rằng “nhu cầu giữ ǵn và bảo vệ tiếng Việt...chưa được
đáp ứng” là xuyên tạc, một lần nữa, nói lên bản chất ăn gian nói dối
của họ.
Ở đoạn cuối của phần 1, NQ nhận định rằng “Chiến dịch đánh tư sản
mại bản ở nước ngoài” chưa “đạt yêu cầu”, cần phải “hạ quyết tâm”
hơn nữa…...”Các chính sách đă ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện
tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc (lại đại đoàn kết nữa!), chưa
khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương,
đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước...”, “Sự đóng góp của bà
con vào công cuộc xây dựng đất nước (thật ra là công cuộc cứu đảng),
nhất là về trí thức, chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng
người VN ở nước ngoài.”
2. Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài trong thời gian tới.
Phần này gồm 4 điểm, lải nhải những điều đă nói ở phần I và sẽ nói ở
phần IV.
1.”Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ
truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Lại chiêu bài “đại đoàn kết toàn dân tộc”! Người viết đă bàn nhiều
về chiêu bài này, xin miễn lập lại
2.”Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn
lực của cộng đồng dân tộc VN, là nhân tố quan trọng góp phần tăng
cường hợp tác hữu nghị giữa nước ta và các nước”.
Tục ngữ có câu “ Có tiền mua tiên cũng được”. Ứng dụng vào trường
hợp này rất đúng:” Tiềm lực kinh tế nhất định...tŕnh độ học vấn và
chuyên môn cao...vị trí quan trọng trong các cơ quan.” (phần 1 của
NQ 36) là chiếc đũa thần đă biến “ bọn ma cô, đĩ điếm, rác rưởi hôi
tanh” thành “ bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt.”Tiếp theo đó NQ 36 ghi:
“Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn
khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của cộng đồng người VN ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và
thông lệ quốc tế.”
Sống ở quốc gia nào, đồng bào tuân hành luật pháp của quốc gia đó và
quyền lợi của đồng bào được chính luật pháp của quốc gia đó bảo vệ.
Luật pháp của các quốc gia dân chủ Tây phương không phải là luật
rừng, muốn bỏ tù, muốn quản chế ai th́ cứ chụp cho người ấy cái mũ
“gián điệp” hoặc “lợi dụng dân chủ” hoặc “ xâm phạm quyền lợi của
nhà nước”. Như vậy, đồng bào hải ngoại đâu cần “nhà nước ta thỏa
thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn
định”.Đồng bào đă ổn định cuộc sống từ lâu rồi kia mà, chính NQ 36
cũng xác nhận trong phần I. Chẳng lẽ “nhà nước ta thỏa thuận với các
nước hữu quan” để đồng bào hiếp dâm trẻ thơ 13 tuổi, rồi có thể dùng
tiền để chạy tội như trường hợp của một Uûy viên Trung ương đảng
CSVN có chức vụ ngang hàng thứ trưởng?
Đặc biệt, trong điểm này, NQ 36 đă ra chỉ thị cho bọn nằm vùng “ chủ
động đấu tranh với các biểu hiện cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung
của dân tộc”. “Các biểu hiện” này không có ǵ khác hơn là các cao
trào vận động tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN.
- Điểm 3 và 4 không có ǵ đáng bàn căi v́ chỉ lập lại những ǵ đă
nói ở phần I và sẽ nói ở phần IV.
3. Nhiệm vụ chủ yếu.
NQ 36 đề ra 9 nhiệm vụ chủ yếu mà đảng, đoàn, mặt trận tổ quốc,
chính phủ “hạ quyết tâm” chu toàn.
1.”Tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống,
yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống nước sở tại, đồng
thời duy tŕ quan hệ gắn bó với quê hương đất nước.”
Hầu hết người Việt hải ngoại là thường trú nhân hoặc đă có quốc tịch
quốc gia nơi họ định cư. Họ đă ổn định cuộc sống, làm ăn phát đạt,
hội nhập vào đời sống xă hội tại các nước sở quan từ lâu, rất lâu
trước khi nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN được Hoa Kỳ cho phép đặt
“Ṭa Đại Sứ” tại Hoa Thịnh Đốn. Sở dĩ như vậy là v́ các quốc gia nơi
đồng bào định cư có tinh thần thượng tôn luật pháp chứ không dùng
luật rừng để khống chế dân chúng. Như vậy, đồng bào không cần bất cứ
ai “hỗ trợ”. C̣n việc “gắn bó với quê hương đất nước”, nó bắt nguồn
từ t́nh tự dân tộc, từ ḷng yêu nước chân thật, không cần ai “tạo
điều kiện và hỗ trợ”. Có ai “hỗ trợ” đâu mà đồng bào hải ngoại đă
nhiều phen bày tỏ sự “gắn bó “đó: v́ “gắn bó với quê hương đất nước”
mà người Việt hải ngoại đă lên tiếng nguyền rủa và kết án bọn dâng
đất dâng biển cho Trung Cộng...
2.”Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng
dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công
cuộc phát triển đất nước.”
Đối với CSVN, trí thức chỉ có thể dùng làm “phân bón” chứ làm thế
nào đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước được! Người trí thức
không bao giờ quên trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo và luật sư
Nguyễn Mạnh Tường cũng như khẩu hiệu “Trí, phú,ù địa, hào; đào tận
gốc, bốc tận rễ.”
3.” Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người VN ở
nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nước.”
Tệ nạn tham nhũng c̣n phủ trùm đất nước th́ đừng ḥng thu hút đầu
tư. Những trường hợp nhà nước t́m cách lấy sạch tài sản của kiều bào
tin lời CSVN mang tiền về đầu tư không phải là ít: Nguyễn Trung Trực
ở Uùc, Trương vĩnh B́nh ở Ḥa Lan, LHS ở Hoa Kỳ... C̣n nhiều đồng
bào hải ngoại khác mang tiền về VN kinh doanh bị CSVN đem luật “xă
nghĩa” áp dụng, phải trở về quốc gia nơi định cư với hai bàn tay
trắng, nhưng v́ tự ái không thuật lại trường hợp “bỏ của chạy lấy
người” của ḿnh.
4.”Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức
tập họp với mục đích đoàn kết người VN ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ
lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con,
nhất là của thế hệ trẻ...”
Từ năm 1976, người Việt tỵ nạn CS đă bắt đầu thành lập các cộng
đồng, các hội đoàn, các hội ái hữu, các hội tương tế để giúp đỡ lẫn
nhau và khi cần, đồng bào đă đoàn kết chặt chẽ với nhau đâu cần CSVN
“đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp”. Nếu
đồng bào không đoàn kết th́ làm sao đập tan được âm mưu của CSVN
trong vụ Trần Trường, thành công trong chiến dịch CỜ VÀNG, xây dựng
được Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Nam California, cấm cửa phái đoàn
CSVN không được bén mảng tới hai thành phố Garden Grove và
Westminster ở Nam California, vận động được Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ
thông qua dự luật nhân quyền cho VN...Cần ghi nhận rằng thế hệ trẻ
đă đóng góp rất nhiều vào sự thành công của các cuộc vận động nói
trên.
Với nhiệm vụ nêu trên, phải chăng CSVN muốn biến các tổ chức đương
hữu của người Việt hải ngoại thành những tổ chức quốc doanh để dễ bề
thao túng và yêu cầu ủng hộ định kỳ hoặc bất thường ? có điều chắc
chắn CSVN sẽ tung tiền để thuê bọn tay sai nằm vùng trong các cộng
đồng lập thêm những hội đoàn mới đối nghịch với các hội đoàn đương
hữu, nghĩa là xé nát các cộng đồng thành ra nhiều mảnh nhỏ!
Cũng trong nhiệm vụ thứ tư này, CSVN “chủ động mở rộng tiếp xúc với
cộng đồng người VN ở nước ngoài, kể cả với những người c̣n có định
kiến, mặc cảm với nhà nước và chế độ ta.”
Tiếp xúc để làm ǵ? Để ḍ la gia cảnh của chúng ta, để yêu cầu chúng
ta cho con em tham dự trại hè, các cuộc chơi ngoài trời, các lớp học
Việt ngữ do họ tổ chức, mời chúng ta tham dự các cuộc nói chuyện”bỏ
túi” của họ, nhất là để yêu cầu chúng ta đóng góp định kỳ và bất
thường, giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”.
“Người Việt ở nước ngoài” không có bất cứ một thứ mặc cảm nào với
CSVN. Viết như NQ 36 là hỗn, là trịch thượng. “Người Việt ở nước
ngoài” không có mặc cảm với bất cứ ai mà chỉ có một nhận định, một
quyết tâm và một niềm hănh diện. Nhận định:CSVN đàn áp tôn giáo, chà
đạp nhân quyền, tiêu diệt dân chủ, dâng đất dâng biển cho Trung
Cộng, cố t́nh làm cho xă hội băng hoại, để dễ bề thống trị, đang d́m
đất nước xuống vũng lầy lạc hậu và sẽ dâng VN cho Tàu để tái tạo một
thứ “Cửu Chân, Nhật Nam” tân thời. Quyết tâm:Tạo điều kiện tiên
quyết để VN vươn lên bằng cách giải thể chế độ CSVN. Một niềm hănh
diện: Dân quân miền Nam đă chiến đấu một cách anh dũng chống lại cả
tập đoàn CS quốc tế gồm Liên Bang Xô Viết, Trung Cộng, Bắc Hàn,
Cuba, Khối CS Đông Âu và CSVN; người Việt tỵ nạn CS c̣n hănh diện về
hai sự kiện lịch sử: Đập tan trận Tổng công kích Tết Mậu Thân của
CSBV và trận hải chiến Hoàng Sa vào hồi 10:20 sáng ngày 19-1-74 giữa
Hải quân VNCH và Hải quân Trung Cộng.
5.”Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người
VN ở nước ngoài nhất là cho thế hệ trẻ”
Vấn đề này người viết đă phân tích ở phần trên. Ở đây, xin nói về ư
đồ của CSVN. Tâm thức của trẻ thơ như tờ giấy trắng, trên đó muốn vẽ
ǵ th́ vẽ. Mở các lớp dạy tiếng Việt cho trẻ thơ với sách giáo khoa
do CSVN biên soạn, với các giáo viên do họ cử đến, CSVN chỉ nhằm
nhồi sọ con cháu chúng ta với những giáo điều Mác Lê và “tư tưởng Hồ
Chí Minh”, những giáo điều và tư tưởng chống lại ư thức quốc gia dân
tộc. Sự nhồi sọ này sẽ biến mỗi gia đ́nh người Việt hải ngoaị thành
một địa ngục trần gian, trong đó con chống cha mẹ, cháu chống ông
bà.
NQ 36 c̣n đề ra nhiệm vụ “Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh,
thiếu niên người VN ở nước ngoài”. Trong các trại hè này sẽ có nhiều
bài thuyết tŕnh. Thuyết tŕnh về đề tài ǵ? Trước hết các trại viên
sẽ được học tập NQ 36, các chiêu bài “ḥa giải, đại đoàn kết toàn
dân tộc. xóa bỏ hận thù. khép lại quá khứ, nh́n về tương lai, công
cuộc đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh”... Nói tóm lại, nhân viên”sứ
quán”CSVN sẽ thuyết tŕnh để các trại viên có một cái nh́n về các đề
tài nói trên theo như ư họ muốn. Nhưng họ sẽ thất bại bởi lẽ thanh
thiếu niên VN ở hải ngoại không quá ngây thơ như họ tưởng!
6.”Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền,
giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và
chính sách của đảng và nhà nước...Hỗ trợ việc ra báo, mở đài phát
thanh”
Muốn hiểu đúng t́nh h́nh đất nước, người Việt tỵ nạn chỉ nghe đài
“Tiếng Nói Hoa Kỳ” hoặc “Đài Á Châu Tự Do” v́ các đài này chỉ làm
công tác thông tin chứ không làm công tác tuyên truyền! Các báo, các
đài phát thanh, truyền h́nh VC vừa “thông tin”, vừa “tuyên truyền”.
Thông tin th́ bưng bít, tuyên truyền th́ lừa bịp. Như vậy, nghe đài,
đọc báo VC, làm sao đồng bào hải ngoại hiểu đúng t́nh h́nh đất nước
được? Về chính sách của “đảng và nhà nước”, không cần nghe đài,
không cần đọc báo VC, chúng ta cũng thừa biết đài và báo ấy tô son
điểm phấn các chính sách của đảng và nhà nước VC; nhưng thực chất,
các chính sách ấy chỉ là những chiêu bài lừa gạt dân chúng, chẳng
hạn như “chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc”, “chính sách ḥa
hợp”, “chính sách đổi mới”, “chính sách về tôn giáo”...
7.”Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước
ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người
Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng
đồng.”
Đây là vấn đề nội bộ của CSVN trong nước và bọn tay sai ở hải ngoại.
Tuy nhiên, việc “khen thưởng” này có thể gây chia rẽ và tạo nghi kỵ
trong cộng đồng người Việt hải ngoại: Một ngày nào đó, bỗng nhiên
đồng bào thấy tên ông Chủ Tịch cộng đồng của ḿnh trong một Bản
Tuyên Dương của VC. Đồng hương sẽ nghĩ ǵ? Có nhiều đồng hương cho
rằng đây chỉ là tṛ chơi bẩn của VC; nhưng cũng có nhiều đồng hương
cho rằng “tên chủ tịch” này thực sự đă trở cờ; nhiều đồng hương khác
tỏ ra dè dặt với đương sự và sẽ không c̣n cộng tác chặt chẽ với cộng
đồng như trước nữa...!
8.”Đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ những quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam ở nước ngoài”
Một lần nữa, xin nhắc lại: “Cộng đồng người Việt ở nước ngoài” từ 30
năm nay đă được luật pháp văn minh của “nước ngoài” “ bảo hộ và bảo
vệ quyền lợi” một cách rất hữu hiệu; “người Việt ở nước ngoài” chưa
hề bị chính phủ các “nước ngoài” cướp giựt qua chánh sách đổi tiền,
họ cũng chưa hề bị chụp mũ “gián điệp” hoặc “lợi dụng dân chủ”, hoặc
“xâm phạm quyền lợi của nhà nước” để bị cầm tù mà không được xét xử;
người viết cũng chưa hề nghe” người Việt ở nước ngoài” bị “quản
chế”. Vậy xin đừng” đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân ở nước
ngoài”.CSVN nên “đẩy mạnh công tác”cứu vớt các thiếu nữ nghèo khó
của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long bị “đảng và nhà nước ta” đồng lơa
trong việc gả bán làm vợ cho các tên khuyết tật hoặc bạo dâm ở Đài
Loan. Xin đọc một đoạn ngắn trong bản tin Người Việt online ngày
12/8/2004:” Một bản tin từ địa phương cho hay, cô Đoàn Nhật Linh, 21
tuổi, đă nộp đơn kiện người chồng Đài Loan về tội tra tấn hành hạ,
bỏ đói cô từ tháng 7/2002 đến tháng 2/2003 rồi chở cô đi vất ở một
chỗ vắng. Nhờ có sự giúp đỡ của người qua đường, cô được vào bệnh
viện cấp cứu khi chỉ c̣n 27 kilô, với nhiều dấu vết tra tấn c̣n trên
thân thể. Câu chuyện này đă gây căm phẫn cho cộng đồng người Việt
khắp thế giới trong khi nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn giữ yên lặng,
tương tự như khi người Việt Nam khắp nơi phản ứng mạnh mẽ khi
website bán đấu giá ở Đài Loan quảng cáo bán 2 cô gái Việt Nam cho
ai trả giá cao nhất.” Ngoài ra, CSVN cũng nên”đẩy mạnh công tác bảo
vệ” người VN ở Nga đang bị người địa phương kỳ thị : hành hung, đả
thương, đốt chợ...”Một công tác khác mà CSVN cần “đẩy mạnh”, là giải
thoát các trẻ em năm bảy tuổi bị “đảng và nhà nước ta” a ṭng với
bọn tú bà xuất cảng sang Miên để làm gái điếm theo lối khẩu dâm!!!
9.”Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài tại các cơ quan đại diện ngoại giao VN ở những nơi có
đông người VN sinh sống”
Đám cán bộ này sẽ len lỏi vào cộng đồng, làm quen với người Việt tỵ
nạn. Sau khi đă trở nên thân thiết, chúng sẽ dở tṛ rỉ tai, bôi nhọ
những người quốc gia chống cộng. Ngoài ra, chúng ta cần nhớ chiến
thuật” trồng người ,gây giống” của VC trong thời gian chờ tập kết
tại Nam Ngăi B́nh Phú, sau hiệp định đ́nh chiến ngày 20/7/54.
4. Tổ chức thực hiện.
Trong phần này, NQ 36 phân công phân nhiệm cho các cơ cấu của đảng
CSVN từ Ban bí thư xuống đến tỉnh ủy, thành ủy của họ nhằm thực hiện
NQ:
-“Phổ biến rộng răi NQ đến cán bộ, đảng viên, và mọi tầng lớp nhân
dân trong nước và đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”
Nhờ đó mà Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS mới biết CSVN đă công khai
hóa chiến dịch nhuộm đỏ Cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta bằng
cách đánh phá, gây chia rẽ, chiêu dụ, trục lợi...một chiến dịch mà
chúng đă phát động một cách âm thầm lặng lẽ từ bao nhiêu năm qua.
-“Cụ thể hóa nội dung NQ 36 thành chương tŕnh hành động”.
Để cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ chính trị ghi trong NQ 36, Thủ
tướng VC đă “sản sinh” ra cái gọi là Quyết định số 110/2004/QD/TU
ngày 26/3/2004 ấn định “chương tŕnh hành động” với 10 công tác phải
thực hiện. Các công tác này thực ra chỉ rút ra từ “9 nhiệm vụ chủ
yếu” mà người viết đă có dịp phân tích. Chúng chứa toàn những chiêu
bài có tác dụng ru ngủ, chiêu dụ đồng bào và phá nát cộng đồng người
Việt hải ngoại.
-Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy có liên quan đến người
VN ở nước ngoài”
Hiến pháp năm 1992 của VC công nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Thế mà vào ngày 18/6/2004, Uûy ban thường vụ của quốc hội VC
đă thông qua pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm hạn chế tới mức
tối đa quyền tự do này. Pháp lệnh nói đây có hệ cấp pháp lư thấp hơn
một đạo luật v́ do Uûy ban thường vụ thông qua chứ không do quốc hội
thảo luận và biểu quyết. Thế mà nó lại đi ngược lại văn kiện tối cao
trong hệ cấp pháp lư là hiến pháp. Vậy thử hỏi “ các văn bản pháp
quy có liên quan đến người VN ở nước ngoài”, nhằm chiêu dụ, ve văn
kiều bào, sẽ có giá trị như thế nào ? Chắc chắn các “văn bản” ấy sẽ
bị ném vào sọt rác bất cứ lúc nào VC muốn. “Hăy nh́n kỹ những ǵ CS
làm, đừng nghe(hay đọc) những ǵ CS nói (hay viết)!
- “Theo dơi việc thực hiện NQ và tổ chức kiểm tra định kỳ, nghe báo
cáo về t́nh h́nh công tác đối với người VN ở nước ngoài”
Công tác này do Ban bí thư đảng CSVN đảm trách với sự trợ giúp của
“Ban cán sự đảng ngoài nước”. Như vậy, VC đă xác nhận “cán sự đảng”
đang lềnh khênh ở nước ngoài. Người Việt trong các cộng đồng nên cố
gắng chiêu hồi họ trở về với chính nghĩa dân tộc hoặc đề cao cảnh
giác để họ không xâm nhập cộng đồng!
Qua phần phân tích và tŕnh bày trên đây, người viết xin nhận định
xem VC muốn ǵ khi vội vă ban hành NQ 36.
B. Tác dụng của NQ 36.
Theo thiển ư, khi vội vă ban hành NQ 36, Bộ chính trị VC nhằm tạo 4
loại tác dụng : ru ngủ, chiêu dụ, đánh phá., thi hành diễn biến ḥa
b́nh đảo ngược. Sự vội vă nói đây được ghi nhận qua sự soạn thảo NQ
36 : dài ḍng văn tự, nhiều điệp ư, nhận định sai lầm, đầy hoang
tưởng, ư đồ quá lộ liễu, nhất là xem thường sự hiểu biết của Cộng
đồng người Việt hải ngoại về bản chất lừa bịp của CSVN.
1.Tác dụng ru ngủ
Từ khi chiếm được miền Bắc vào năm 1955 cho đến 5 năm sau khi thôn
tính được miền Nam, VC không hề tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Bỗng
dưng năm 2001, họ cử hành Lễ Giỗ Tổ một cách trọng thể và sau đó họ
ban hành NQ số 35/NQ/TU ngày 9/2/2004 quy định các ngày đại lễ trong
hai năm 2004-2005 trong đó có ghi Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Đây là một
sự việc mới lạ chưa từng thấy trong gần nửa thế kỷ qua! Tại sao lại
có “hiện tượng về nguồn” nói đây? Phải chăng VC đă thay đổi tư duy?
Người viết không nghĩ như thế. Xin nhắc lại lời nói của văn ḥa
Solzenitsyne:” Đi xe đạp từ mặt đất lên mặt trăng c̣n dễ hơn là làm
cho CS từ bỏ bạo lực và thay đổi tư duy”. VC không thay đổi tư duy,
thế tại sao trong gần nửa thế kỷ, họ bỏ mặc Đền Hùng cho gió mưa tàn
phá, cho cỏ dại ngập lối đi, cho muông thú làm hang ổ, bỗng nhiên
năm 2001, họ bỏ ra hàng tỷ bạc để tái chỉnh trang Đền Hùng và tưng
bừng tổ chức Lễ Giỗ Tổ như đă nói trên? Phải chăng họ muốn sử dụng
đại lễ này như một phương tiện nhằm xoa dịu cơn phẫn nộ của quần
chúng và làm cho quần chúng lăng quên tội ác của họ trong việc lén
lút kư kết vào cuối năm 1999 và năm 2000, hai hiệp định dâng đất
dâng biển cho Trung Cộng?
Theo thiển ư, khi ban hành NQ 36, Bộ chính trị VC cũng nhằm vào tác
dụng ru ngủ, nghĩa là làm cho người dân trong nước và người tỵ nạn
CS lăng quên các vấn đề sau đây v́ măi t́m phương pháp để vô hiệu
hóa NQ 36!
-Việc quốc hội VC phê chuẩn hai hiệp định dâng đất ,dâng biển cho
Trung cộng.
-Vấn đề Tây Nguyên với hàng trăm đồng bào Thượng bị CSVN thảm sát và
hàng ngàn đồng bào Thượng khác phải trốn vào rừng, chết v́ đói lạnh
hoặc phải bỏ xứ mà đi!
-Nạn tham nhũng “hết thuốc chữa” của các “quan chức” CSVN từ thượng
tầng đến hạ đẳng.
-Chiến dịch đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền do VC tiếp tục
phát động với “pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo”sẽ có hiệu lực vào
ngày 15/11/2004
-Chính sách “đem con bỏ chợ” trong việc xuất khẩu công nhân để làm
“nô lệ” hầu trả những món nợ khổng lồ cho các nước “xă hội chủ nghĩa
anh em”.
-Xuất cảng trẻ thơ và thiếu nữ để phục vụ t́nh dục cho ngoại bang
hầu thu tiền về cho đảng.
-Nạn măi dâm, ma túy đang tràn ngập hai thành phố Saigon, Hà Nội và
các tỉnh le.û
Một vấn đề khác có tính cách sinh tử đối với CSVN mà họ cố t́nh dấu
diếm hoặc làm cho toàn dân quốc nội lẫn hải ngoại không chú ư
tới...Đó là “Loạn Trào Ca” hay “Loạn Ba Đ́nh” tức sự rạn nứt trầm
trọng trong hàng ngũ chóp bu của CSVN. Đây có lẽ là vấn đề gây nhiều
bối rối và lo âu cho VC.
Sự rạn nứt nói trên đă có từ lâu trong đảng CSVN với vụ án “xét lại
chống đảng”, với sự hạ tầng công tác Vơ Nguyên Giáp, với sự sát hại
các tướng VC, tay chân của Vơ Nguyên Giáp và là đại công thần của
chế độ như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần B́nh, Đinh Đức Thiện,
các nghi án về cái chết của Phạm Hùng và Trường Chinh Đặng Xuân
Khu(7). Mới đây, Thượng tướng VC Nguyễn Nam Khánh (NNK) đă gửi Bộ
chính trị CSVN một bức thư đề ngày 17/6/2004 tố cáo một sự “tàn sát
chính trị” do Tổng cục 2( Tổng cục t́nh báo, quân báo và phản gián)
thuộc Bộ quốc pḥng CSVN, thực hiện bằng cách bịa ra một tên có bí
danh là T4 “nằm trong CIA để mật báo nhằm “vu khống” giới lănh đạo
thượng tầng của VC :giới này đă tiếp xúc và nhận sự chỉ đạo của CIA!
Đám lănh đạo thượng tầng này gồm những ai? NNK cho biết T4, “nằm
vùng” trong CIA, đă nêu các tên tuổi sau đây: Vơ Nguyên Giáp, Vơ Văn
Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chí Thọ, Trương Tấn Sang, Vơ
Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Vơ Viết Thanh,, Lê Văn Dũng, Nguyễn Nam
Khánh, Phan Diễn...Thực ra bức thư của NNK không có ǵ mới lạ, nó
bắt ngườn từ sự tranh chấp giữa hai đại tướng CSVN là Vơ Nguyên Giáp
và Lê Đức Anh vào năm 1991 và những năm về sau cho đến ngày nay. Tuy
nhiên bức thư của NNK có nhiều chi tiết hơn các văn bản được phổ
biến trước đây và có tác dụng nguy hại hơn cho sự “đoàn ketá nhất
trí” và “nền tảng” của đảng CSVN.
Liệu NQ 36 và sự ồn ào quanh nó có thể làm cho người dân quốc nội và
đồng bào hải ngoại không c̣n lưu tâm đến các vấn đề nêu trên nữa hay
không ? Người viết nghĩ rằng không bởi một lẽ rất đơn giản là các
vấn đề kể trên được VC lập đi lập lại hàng ngày: tham nhũng, cấu xé
lẫn nhau để giành ngôi vị, đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền, xóa
bỏ dân chủ, tiêu diệt đồng bào thiểu số, tiếp tục a ṭng xuất cảng
trẻ thơ và thiếu nữ miền Nam để làm gái măi dâm và làm “dâu” Đài
Loan, chấp nhận triều cống và sẵn sàng dâng thêm đất và biển cho
Trung Cộng để “duy tŕ t́nh hữu nghị”!
2.Tác dụng chiêu dụ.
Có hai thứ mà CSVN rất thèm muốn :kỹ thuật và ngoại tệ mà họ t́m mọi
cách để chiêu dụ.
Về các ngành chuyên môn và thuật quản trị, hải ngoại có thể về đóng
góp trong các cuộc hội thảo, hoặc thuyết tŕnh về các vấn đề chuyên
môn hay giảng dạy theo quy chế giáo sư thỉnh giảng. C̣n vấn đề về ở
hẳn làm công dân của nước CHXHCNVN để đóng góp chất xám dưới quyền
lănh đạo của những kẻ có nhiều “hồng” mà chẳng có “chuyên” lại là
một việc khác. Triết gia Trần Đức Thảo đă về VN và đă được giao việc
dịch truyền đơn kêu gọi lính Pháp đào ngũ; sau đó Hồ Chí Minh
bảo:”Chú đă học nhiều kiến thức phương Tây; bây giờ chú cần học ở
nhân dân.” Tiến sĩ văn chương kiêm Tiến sĩ luật khoa Nguyễn Mạnh
Tường đă về nước và dạy ở trường Dự bị đại học và sau ngày đ́nh
chiến (1954) về dạy ở trường Đại học văn khoa. Trong một buổi họp
của Mặt trận tổ quốc tại Hà Nội, ngày 30-10-1956, luật sư Nguyễn
Mạnh Tường đă đọc bài diễn văn với tựa đề “Qua Những Sai Lầm Trong
Cải Cách Ruộng Đất – Xây Dựng Quan Điểm Lănh Đạo”. Sau bài diễn văn
này, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đă bị cô lập và bị đẩy vào một t́nh
trạng bi đát. Trên đây là hai trường hợp trong nhiều trường hợp điển
h́nh về số phận của các nhà trí thức yêu nước, thương dân nhưng
không chịu yêu XHCN và nhất là không chịu nịnh “dảng”!
Ngoài trí thức, CSVN c̣n cần ngoại tệ. Trên 3 tỉ Mỹ Kim người Việt
hải ngoại gửi hoặc mang về hàng năm, họ chưa cho là đủ. Thật vậy,
trong phần 1 của NQ 36, Phan Diễn viết:” Sự đóng góp của bà con vào
công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về trí thức (VC nên nói thật
ḷng ḿnh: nhất là về đô la), chưa tương xứng với tiềm năng của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Một điểm CSVN có thể đă thấy
trước. Đó là nguồn ngoại tệ từ hải ngoại về VN sẽ cạn dần, về cả hai
phương diện “gởi” và “mang”: Oâng A gửi tiền hoặc mang tiền về thăm
cha, me hoặc anh, chị, em ; cha mẹ anh chị em qua đời, ông A chấm
dứt việc gửi tiền hoặc mang tiền về thăm; ông A qua đời, con cháu
của ông ta sẽ không làm đượïc như ông ta. Do đó, NQ 36 đă đề ra
phương thức “thường xuyên tổ chức...du lịch về nguồn”. Phương thức
này có thể có hai tác dụng: thu ngoại tệ qua h́nh thức xuất cảng vô
h́nh (du lịch) và hâm nóng t́nh gia tộc để con cháu nối tiếp công
việc của ông cha đă qua đời: gửi tiền và mang tiền về thăm thân
nhân.
Nhưng du lịch VN cũng có nhiều hạn chế: ô nhiễm nước uống, ô nhiễm
không khí, ô nhiễm tiếng động, cướp giựt, tai nạn xe cộ, luật rừng ,
(có thể bị chụp mũ CIA, gián điệp)yêu cầu đóng góp để “phát triển
đất nước”.
3.Tác dụng đánh phá.
Như trên đă nói, việc tổ chức dạy Việt ngữ với sách giáo khoa do VC
soạn và giáo viên do VC cử đến có thể reo rắc vào tâm hồn của con
cháu chúng ta những tư tưởng hắc ám và, do đó chúng chống lại cha
mẹ, ông bà. Gia đ́nh nào có con em tham dự lớp Việt ngữ do VC tổ
chức sẽ tiếp nhận một hoặc vài tên “công an bé con” trong gia đ́nh.
Xin nhớ lại t́nh trạng này trong những năm tháng sau ngày VC cưỡng
chiếm miền Nam.
“Chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài có thành
tích trong vận động xây dựng cộng đồng” sẽ có tác dụng tạo ra sự
nghi ngờ , dè dặt giữa những thành viên trong cộng đồng người Việt
tị nạn CS và, do đó, sẽ vô hiệu hóa các hoạt động của cộng đồng
trong công cuộc đấu tranh nhằm giải thể chế độ CSVN. Mặt khác, sự
khen thưởng nói trên sẽ đưa đến việc thành lập nhiều hội đoàn, nhiều
cộng đồng có cùng một mục đích với thành phần hội viên giống nhau:
Hội Cựu Quân Nhân, Hội Cựu Chiến Sĩ, Hội Cựu Quân Nhân Chống
Cộng...Các hội này sẽ “ngồi nh́n nhau” để bới lông t́m vết, phê
b́nh, chỉ trích, đả kích, bôi nhọ lẫn nhau chứ “không nh́n về một
phía”, phía CSVN, để xem họ giở tṛ ǵ trong chiến dịch nhuộm đỏ
cộng đồng người Việt hải ngoại.
Với việc “tăng cường cán bộ tại các cơ quan đại diện ngoại giao” và
việc “ chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người VN ở nước
ngoài”, CSVN quyết tâm xâm nhập cộng đồng người Việt tị nạn để rỉ
tai tuyên truyền các chiêu bài của họ với từng người Việt tị nạn một
hoặc với từng nhóm nhỏ và nhất là để gây mâu thuẫn giữa những người
Việt tị nạn CS hầu phá nát cộng đồng hải ngoại, chiến tuyến chống
cộng rất tích cực và hữu hiệu. Sau hết, và xin lập lại, các cuộc
tiếp xúc đó cũng là dịp để đám cán bộ VC xin đồng bào ủng hộ định kỳ
tiền bạc để đảng và nhà nước “phát triển đất nước”. Đồng bào nào đă
về VN hẳn có nhiều kinh nghiệm về việc này với đám cán bộ VC trong
nước, nhất là ở các tỉnh.
4.Tác dụng diễn biến ḥa b́nh đảo ngược.
CSVN đang bối rối và sợ hăi diễn biến ḥa b́nh mà Hoa Kỳ và các quốc
gia Tây Phương đang thực hiện nhằm thay đổi dần dần chế độ CSVN. Để
hóa giải tác hại của diễn biến ḥa b́nh nói đây, CSVN nỗ lực “tổ
chức thực hiện thắng lợi NQ 36”, nhằm tạo một thứ diễn biến ḥa b́nh
đảo ngược để từ từ thay đổi cộng đồng người Việt hải ngoại theo
chiều hướng họ muốn. Diễn biến ḥa b́nh nào sẽ đạt thắng lợi sau
cùng? Chắc chắn không phải diễn biến ḥa b́nh đảo ngược v́ các lẽ
sau đây:
-Đồng bào quốc nội đă chán ngấy chủ nghĩa MácLê, một thứ chủ nghĩa
mà “thầy không muốn dạy, tṛ không muốn học”;
-Sau 50 năm thống trị miền Bắc và 30 năm đô hộ miền Nam, CSVN đă để
lộ chân tướng là một tập đoàn chỉ yêu nước bằng mồm, mồm nói yêu
nước mà hành động lại không thương dân. Cách đây mấy năm, dân đói
đến độ phải ăn xương rồng mà sống lây lất qua ngày. Ở Quảng Nam có
một gia đ́nh ăn xương rồng, nấu không kỹ, đă chết toàn gia. Trong
khi đó CSVN đem 10 tấn gạo dâng cho Bắc Hàn, đồng thời đẩy mạnh xuất
cảng gạo để đem ngoại tệ về cho đảng. Nhờ đó mà đồng bào miền Nam đă
ngậm ngùi nhờ đến câu nói cuả vị Tổng Thống nền Đệ nhị Cộng ḥa:”
Đừng nghe những ǵ CS nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ CS làm”.
-Với phương tiện truyền thông tối tân hiện nay, CSVN không c̣n có
thể bưng bít và lừa bịp đồng bào quốc nội được nữa.
Vài ba lư do nêu trên cũng khá đủ để đồng bào quốc nội sẵn sàng chấp
nhận diễn biến ḥa b́nh mặc dù CSVN cố gắng chống lại.
Đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, CSVN có thể nghĩ rằng đó chỉ
là “con quạ” khù khờ trong bài ngụ ngôn “Le Corbeau et le Renard”
của La Fontaine, c̣n ḿnh là “con cáo” khôn ngoan. Do đó, họ chắc
mẻm sẽ xơi tái Cộng đồng ấy với cái “diễn biến ḥa b́nh đảo ngược”
ï. Họ đă lầm! Lầm v́ xem thường sự hiểu biết của cộng đồng người
Việt về cái bản chất lừa bịp của họ. Tuy nhiên, nếu chúng ta thờ ơ,
khinh xuất, không đề cao cảnh giác, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cái
bẫy sập”mật ngọt, chết ruồi”.
C.Cảnh giác của cộng đồng người Việt hải ngoại
1.Trước khi bàn về vấn đề này,xin nhắc lại bài “Con Quạ với con
chồn” do cụ Nguyễn Văn Vĩnh chuyển ngữ từ bài ngụ ngôn”Le Corbeau et
le Renard” của Jean de La Fontaine, một nhà ngụ ngôn lừng danh của
nước Pháp vào thế kỷ thứ XVII.
Con Quạ Với Con Chồn
Con quạ đậu trên cây cao
Mỏ ngậm bánh sữa tha đâu mới về
Bắt hơi chồn tới gần kề
Muốn ăn bánh sữa cà kê phỉnh rằng:
Quạ ơi! Cụ tốt ai bằng,
Láng ô lông lá, dịu dàng h́nh dung
Tiếng Cụ khi cũng tốt hung
Phải Cụ kêu thử vô cùng êm tai
Tiếng trong, lông tốt gồm hai
Thượng cầm một Cụ có ai sánh tài.
Quạ nghe lời phỉnh mừng thay
Cất tiếng kêu lớn bánh rày rớt đi
Con chồn được bánh lại khi:
“Quạ ơi! Mày chớ nghe chi lời này
Lỡ lầm mày phải nhập tâm
Tao ăn bánh sữa để làm gương sau
Hụt ăn v́ tiếng chuốt trau
Quạ thề lần khác th́ tao không lầm!
Đọc xong bài ngụ ngôn này, chúng ta thấy: thèm miếng fromage của con
quạ, con chồn trổ tài nịnh hót, dùng lời ngon tiếng ngọt, gọi quạ
bằng “Cụ”, để con quạ cất tiếng kêu. Quả thật, con quạ mắc kế con
chồn, hả mỏ kêu lớn và miếng fromage được “điều” từ mỏ con quạ sang
miệng con chồn! Khi ấy con chồn lên tiếng “mày, tao” để dạy khôn con
quạ!
CSVN muôn đời vẫn là “cáo” trong bài ngụ ngôn nói trên và vẫn dùng
trăm mưu ngàn kế để lừa bịp mọi người: người Việt quốc nội, người
Việt hải ngoại và người của năm châu bốn bể! Bây giờ không c̣n ai
tin CSVN một cách khơi khơi nữa. Do đó, Cộng đồng người Việt hải
ngoại không bao giờ và sẽ không khi nào là con quạ khù khờ như CSVN
nghĩ và mong muốn!
Từ giữa thập niên 70 trở đi, CSVN gọi đồng bào bỏ trốn chế độ CS là
“bọn ma cô, đĩ điếm,bọn bán nước, rác rưởi hôi tanh...” Bây giờ họ
thèm muốn nhũng ǵ “bọn ma cô đĩ điếm...” gầy dựng được trong 30 năm
qua, họ bèn đổi giọng, gọi “bọn ma cô đĩ điếm...” là “ khúc ruột
ngoài ngàn dặm, bộ phận máu thịt của dân tộc VN”.Nếu đồng bào hải
ngoại tin vào các chiêu bài của họ, tự đặt ḿnh vào tầm ảnh hưởng và
chi phối của họ th́ có thể đồng bào sẽ trở thành “bọn đầu hàng giai
cấp” và nói theo Thành Tín “bọn thú đă được đảng ta biến thành
người”.Chắc chắn khi ấy đồng bào sẽ thật sự trở thành thần dân của
họ và có bổn phận đóng góp để họ “phát triển đất nước” và phải thi
hành những công tác do họ giao phó.
2.Chúng ta có thể xem NQ 36 như một cuộc “tổng công kích” nhằm vào
cộng đồng người Việt hải ngoại giống như cuộc “Tổng công kích Tết
Mậu Thân” năm 1968 của CSBV nhằm vào VNCH.
Tại sao CSBV đại bại trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân”? Dĩ
nhiên một phần lớn nhờ sự chiến đấu dũng liệt và tuyệt vời của các
quân binh chủng VNCH. Một yếu tố khác không kém phần quan trọng :
Đồng bào Miền Nam. Thử hỏi nếu đồng bào hưởng ứng lời kêu gọi “tổng
nổi dậy” của CSBV, vác cờ búa liềm, cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận giải
phóng miền Nam, bích chương biểu ngữ ủng hộ “cách mạng”, đi biều
t́nh “hoan hô, đả đảo” th́ cuộc diện lúc bấy giờ sẽ ra sao?
Cuộc “Tổng công kích bằng NQ 36” của CSVN cũng sẽ thành công, nếu
người Việt hải ngoại hưởng ứng lời kêu gọi của họ v́ tin lời ngon
tiếng ngọt và các chiêu bài lừa bịp của họ.Chúng tôi tin rằng sự
hưởng ứng này khó có thể xẩy ra v́ người Việt hải ngoại có quá nhiều
kinh nghiệm đau thương với họ.
3, Dưới đây người viết có vài ư kiến về những việc mà cộng đồng
người Việt tại các địa phương có thể thực hiện liên quan đến NQ 36.
1.Tại các tiểu bang, đồng bào đều thành lập Cộng đồng với danh xưng
“ Cộng Đồng Người Việt Tự Do” hoặc “Cộng Đồng Người Việt Quốc
Gia”... và bầu ra một Uûy ban để điều hành cộng đồng. Không có đồng
bào, sẽ không có cộng đồng. Vậy, mọi việc liên quan đến đồng bào,
Uûy ban điều hành có bổn phận thông báo cho đồng bào rơ và xin đồng
bào đóng góp ư kiến. Người Pháp có câu: “Deux têtes vallent mieux
qu’une”.
NQ 36 là một vấn đề quan trọng. Không những nó t́m cách chiêu dụ
đồng bào về tiền bạc, về chất xám mà nó c̣n gây tác hại nặng nề đến
tâm thức của con cháu đồng bào qua các lớp Việt ngữ, sinh hoạt ngoài
trời (picnic, pot luck), trại hè, du ngoạn...do tay sai CSVN tổ
chức. Chẳng những thế, nó c̣n có thể xâm phạm đến đời sống riêng tư
của gia đ́nh đồng bào qua những cuộc viếng thăm thực hiện bởi cán bộ
CS.
Bởi lư do nêu trên, người viết nghĩ Ủy ban điều hành cộng đồng nên
triệu tâp Đại hội đồng hương để cùng đồng hương t́m hiểu NQ 36 và
t́m cách hóa giải nó!
2.Từ năm 1976 đến nay, các tiểu bang đều có lớp dạy Việt ngữ miễn
phí cho trẻ em. Nhưng lần lần các lớp đó đều phải đóng cửa v́ phụ
huynh không có thời giờ cho con em đến lớp và yêu cầu cộng đồng cho
người đến chở giúp con em đến lớp. Cộng đồng làm sao có phương tiện
để thỏa măn yêu cầu của phụ huynh!
Bỗng nhiên một ngày nào đó, một nhóm người đứng ra tổ chức lớp dạy
Việt ngữ vào hai ngày cuối tuần và các ngày lễ: họ cho xe đến chở
các em đến lớp; cho các em ăn sáng trước khi lớp bắt đầu; giờ nghỉ,
có bánh, có nước ngọt; trưa, có thức ăn trưa; chiều, có xe đưa các
em về.
Trong trường hợp này đồng bào cần t́m hiểu nhóm người đó là ai, từ
đâu đến, từ trước đến nay họ có những hoạt động ǵ cho cộng đồng,
tiền ở đâu họ có để tài trợ việc chuyên chở, mua thức ăn, thức uống
cho con em của đồng bào.
Nếu đồng bào không muốn con ḿnh bị nhồi sọ và đầu độc bởi tà thuyết
tam vô cùng những tư tưởng hắc ám khác, nếu đồng bào không muốn con
ḿnh trở thành “cháu ngoan bác Hồ” và nếu đồng bào không muốn con
ḿnh trở thành một tên “công an tí hon” ŕnh rập ḿnh ngày đêm để
báo cáo với”giáo viên do đảng cử đến” th́ sau khi t́m hiểu tung tích
của nhóm người tổ chức lớp dạy Việt ngữ và xác định lớp dạy Việt ngữ
đích thực là sản phẩm của NQ 36, đồng bào có hai việc đơn giản sau
đây cần làm: tẩy chay và cô lập hóa, hai vũ khí chống cộng và diệt
cộng rất hữu hiệu.
-Tẩy chay nghĩa là không gửi con đến lớp dạy Việt ngữ nặng mùi NQ
36, đồng thời báo động cho bà con trong cộng đồng biết để cùng tẩy
chay
-Cô lập hóa nhóm người tổ chức lớp dạy Việt ngữ nếu họ là người sống
tại địa phương: Không giao thiệp, không bắt tay, không chào hỏi,
không chuyện tṛ, không nh́n mặt...
Những điều cần làm trên đây cũng sẽ được áp dụng cho trại hè, sinh
hoạt ngoài trời, du ngoạn, cắm trại, đại nhạc hội...
3.NQ 36 đă tỏ ra rất “mặn mà” với công tác “mở rộng tiếp xúc với
người Việt Nam ở nước ngoài kể cả với những người c̣n có định kiến,
mặc cảm với nhà nước và chế độ ta”. Người viết đă có vài hàng về hai
chữ “mặc cảm” mà CSVN đă lên mặt kẻ cả gán cho chúng ta (xin xem
phần trên).
Tiếp xúc để làm ǵ ? Người viết đă trả lời câu hỏi này ở phần trên.
Ở đây, xin nhấn mạnh:mọi sự tiếp xúc với cán bộ CSVN đều đem lại cho
chúng ta nhiều phiền muộn. Tốt hơn hết nên từ chối mọi cuộc viếng
thăm của người lạ(No solicitations ! No trespassing!)
4.Từ trước đến nay, Ban tổ chức các buổi lễ (Trung thu, Tết Nguyên
Đán, Sinh hoạt ngoài trời...) rất dễ dăi trong việc quay phim chụp
ảnh. Ai muốn quay, cứ quay; ai muốn chụp, cứ chụp. Tưởng đă đến lúc
cần đặc biệt lưu tâm đến vấn đề này. Cán bộ CSVN có thể quay phim
các buổi lễ của cộng đồng hải ngoại, đem về VN tŕnh chiếu cho đồng
bào quốc nội xem với lời giải thích như sau:” Hưởng ứng NQ 36 của Bộ
chính trị đảng ta, cộng đồng người Việt tại thành phố Y đă tổ chức
thành công Tết Trung Thu cho con em. Có hơn 3 ngàn trẻ em tham dự,
diễn hành với lồng đèn do sứ quán ta trao tặng…...”Biết đâu vào ngày
26/3/2005, tại quốc nội CSVN sẽ huênh hoang kiểm điểm thành quả sau
một năm “thi hành thắng lợi NQ 36” tại các “cộng đồng người VN ở
nước ngoài” với h́nh ảnh cáclớp học, các buổi lễ, các buổi cắm trại
do cộng đồng người Việt tị nạn CS tổ chức. Với kỹ thuật tân kỳ hiện
nay, việc biến CỜ VÀNG thành cờ máu trong các phim ảnh có ǵ là khó
khăn! Đừng nghĩ rằng CSVN không dám làm chuyện này v́ quá lộ liễu.
Không đâu! Cái ǵ họ cũng có thể làm để phục vụ công tác tuyên
truyền của họ.
Trên đây chỉ là vài đề nghị vụn vặt. Đại hội cộng đồng chắc chắn sẽ
đề ra những biện pháp qui mô và hữu hiệu hơn.
CSVN đă quyết tâm thôn tính Cộng đồng người Việt hải ngoại bằng NQ
36. họ đă chuẩn bị khá kỹ sự thi hành NQ Kèm theo NQ 36 là quyết
định số 110/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ CSVN đề ra “Chương
tŕnh hành động” với 10 công tác phải làm để để “thực hiện thắng lợi
NQ nêu trên của Bộ chính trị”. Ngày 21/7/2004 một hội nghị do Bộ
chính trị đảng CSVN triệu tập tại Hà Nội gồm “Ban cán sự đảng Bộ
ngoại giao, Ban cán sự đảng ngoài nước, Uûy ban về người Việt ở nước
ngoài , Mặt trận tổ quốc, Ban tư tưởng văn hóa trung ương” để học
tập và phổ biến NQ 36 đến “cán bộ chủ chốt các bộ, ban ,ngành ở
trung ương và 64 tỉnh thành trong cả nước”. Trong hội nghị, Phạm Thế
Duyệt, chủ tịch Mặt trận tổ quốc của CSVN, đă công khai hóa” Hội
thân nhân Việt kiều”, một tổ chức đă được thành lập và hoạt động từ
năm 1994. Có thể nói trong hội nghị này, CSVN đă hạ lệnh cho toàn
đảng, cho cả guồng máy chính quyền của họ “thực hiện thắng lợi NQ
36”.
Sáng ngày 23/7/2004, CSVN tại Saigon đă tổ chức một buổi họp mặt với
118 Việt kiều mà đa số là “tàn dư Việt kiều yêu nước thuở xa xưa” để
học tập NQ 36. Các Việt kiều này có nhiệm vụ “triển khai” NQ đến
người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới...
Với những công tác chuẩn bị ồn ào nói trên, CSVN nghĩ rằng đồng bào
hải ngoại:
-sẽ tin những lời “vuốt ve phỉnh lừa” của họ .
-sẽ tin các chiêu bài cũ rich của họ
-đă quên trên dưới một vạn đồng bào bị họ thảm sát tại cố đô Huế
-đă quên việc họ dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng
-đă quên những thủ đoạn tàn độc của họ trong quá khứ
-không hề để tâm đến những ǵ họ đang làm trong hiện tại: đàn áp tôn
giáo, chà đạp nhân quyền, tiêu diệt dân chủ
-không hề biết tới cái”pháp lệnh tôn giáo” họ mới vừa ban hành và sẽ
có hiệu lực vào ngày 15/11/2004 để tiếp tay với họ “thi hành thắng
lợi NQ 36”.
Kỳ vọng càng cao, thất vọng càng lớn.CSVN đánh giá quá thấp trí nhớ
và sự hiểu biết của đồng bào hải ngoại về bản chất lừa bịp cố hữu
của họ. Những ǵ họ kỳ vọng nơi đồng bào sẽ không bao giờ xẩy ra!
Nói như thế không phải người viết khinh địch và quên lời nói của
người xưa” chưa thắng đă kiêu, chưa thua đă rối”. Chúng ta “không
kiêu” chúng ta “không rối”. Chúng ta chỉ có một quyết tâm: quyết tâm
vô hiệu hóa NQ 36 để CSVN không c̣n phương tiện cứu đảng, cứu chế
độ, một chế độ phi nhân, tàn độc chưa từng thấy trong lịch sử nước
nhà, một chế độ làm kinh tài bằng cách xuất cảng trẻ thơ làm gái măi
dâm nơi xứ người và xuất khẩu công nhân làm nô lệ ngoại bang.
Người viết nghĩ rằng các hội đoàn, các đoàn thể, các tổ chức đấu
tranh và Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa Hải Ngoại đă hoàn tất
việc soạn thảo kế hoạch chống NQ 36. Đồng bào hải ngoại là yếu tố
quyết định sự thành công của kế hoạch đề ra.
Tháng 10 năm 2004
MX Lê Công Truyền
CƯỚC CHÚ
0. “...Vệ quốc đoàn, bố đẻ của quân đội nhân dân, đă viết những
trang sử ô nhục nhất của lịch sử quân đội thế giới ở Láng Linh bằng
sự thất trận và dă man, trước những người tu hành. Họ bắn như say
máu. Đàn ông, đàn bà, ông già người trẻ ào ào xông lên trước lằn đạn
trung liên của Vệ quốc quân. Thây chất lên thây, máu tràn lên máu.
Mặc, người Láng Linh cứ xông tới, tay cầm cờ dà, tay hươi binh khí,
phần lớn là dao kiếm gỗ, có cả những người tay không. Trước uất khí
của Láng Linh, bộ đội phải rút lui bằng nhiều ngả. Để gỡ lại chút uy
tín, trước khi rời Láng Linh, bộ đội đă lùa hàng trăm thường dân,
gom trước sân một nhà giảng. Viên chỉ huy bắt một người đàn bà đang
bồng con ra khỏi đám đông, rút lá cờ dà trong túi ném xuống đất và
giật đứa bé ném thí mạng vào đám đông. Anh ta lấy chân hất cho lá cờ
trải rộng ra, rồi rút súng ngắn trỏ vào mặt người đàn bà, quát:”Lết
lên!”. Người đàn bà quấn khăn nâu viền vàng trên đầu, đứng trân
trân, mắt trừng trừng nh́n viên chỉ huy. Anh ta lên đạn, quát:”Lết
lên! M……….. .au!”. Người đàn bà vẫn đứng, mắt ngó lá cờ. Viên chỉ
huy vung súng, quát:”Lết lên, không tao bắn!”.Người đàn bà chớp mắt
lia lịa. Hàng trăm cặp mắt chớp theo. Viên chỉ huy bước tới, dí súng
vào thái dương người đàn bà, quát:”Ngồi xuống, lết qua, không tao
bóp c̣!”. Rồi một tay giữ súng dính vào thái dương, tay kia anh ta
đẩy sau lưng người đàn bà, nhưng người đàn bà vẫn chôn chân như cây
cột. Viên chỉ huy hạ giọng:”Thôi bứơc qua cũng được. Không phải
lết!”. Người đàn bà bị đẩy suưt chúi nhủi, bước ṿng rồi quay lại
nh́n lá cờ. Viên chỉ huy đi theo và lần này ra lịnh cho đơn vị:”Súng
máy, súng múc chĩa vào bọn người kia”. Tíêng “cu lách” chuyển động
lạnh xương sống. “ Mày có bước qua hay không th́ bảo!”. Viên chỉ huy
nghiến răng ấn họng súng vào thái dương người đàn bà và lôi chiếc
khăn trên đầu của chị ném xuống đất. Người đàn bà vụt quỳ xuống nhặt
lấy lá cờ lẫn khăn đội lên đầu.
Đoành! Đoành!Đoành! Anh ta siết c̣ ba lần. Người đàn bà ngă lăn, hai
tay vẫn nắm chặt lá cờ miết trên mái tóc. Mấy trăm người kia ào lên
thành sóng, xô tới.Viên chỉ huy hét:”Bắn!”. Tất cả súng máy, súng
múc đều phụt khói.”Bắn ! bắn!”, Hắn vung tay quát tiếp:”Bắn sạch!”.
Họ bắn chết sạch thật. Họ phóng lửa đốt luôn nhà giảng. Những đứa bé
con ngo ngoe, c̣n ḅ lê, c̣n khóc,đều bị các Vệ quốc quân xách chân
ném vào lửa…….. .
1.Tiếp xúc với kiều bào ngày 15-1-04, Chủ tịch nước CHXHCNVN Trần
Đức Lương đă đưa ra chiêu bài mà NQ 36 đă lập lại gần như nguyên
văn:”Đồng bào VN ở nước ngoài là một bộ phận máu thịt của dân tộc
VN”
2.Ủy viên trung ương đảng CSVN Lương Quốc Dũng (LQD), Phó chủ tịch
Uûy ban thể dục thể thao, 52 tuổi, đă trả tiền cho người t́nh cũ của
y để thị này dụ em nhỏ 13 tuổi đến khách sạn cho y thỏa măn dâm tính
với giá 1000 đô la để y “xả xui”.tội ác xẩy ra ngày 30-12-03 và cha
nẹ em bé đă tố cáo với công an vài ngày sau đó. Thế mà măi đến 11
giờ ngày 19-2-04, công an Hà Nội mới bắt giam LQD. Phải chăng v́ sự
việc quá lộ liễu, tà quyền VC không ém nhẹm được nên đành phải để
công an bắt giam can phạm ?
Vụ LQD c̣n đang làm dư luận xôn xao th́ một hành động đầy “đạo đức
cách mạng” khác xẩy ra. Một đảng viên cao cấp trong ngành thể dục
thể thao VC bị một vận động viên tên NTTV tố cáo với lời lẽ “tả
chân” mà chúng tôi không dám viết ra (xin xem mạng lưới Tuổi Trẻ
Việt Nam Lên Đường)
3.Câu chuyện cô Nông Thị Xuân “phục vụ” Hồ Chí Minh có con rồi bị
thủ tiêu bằng một tai nạn xe hơi. (Xin đọc Lửa Việt, bộ mới, năm thứ
năm, số 50 ngày 15-7-97 và Thế Kỷ 21 số 46 tháng 4/97 trang 33-40
:Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh, tác giả là ông
Nguyễn Minh Cần, cựu Phó chủ tịch Uûy ban hành chánh thành phố Hà
Nội.
4.Hồi tháng 6-2003, tiếp xúc với đồng bào tại miền Đông Hoa Kỳ, Thứ
trưởng thường trực Bộ Ngoại giao CSVN, trong cuộc mạn đàm đă hỏi
đồng bào:”Sao các anh giận lâu thế?”. Rất tiếc là không có ai hỏi
lại hắn:” Sao CSVN ngu lâu thế, nhắm mắt lâu thế.? Hăy mở mắt ra.”
5.Le Livre Noir Du Communisme, Edition Robert Laffont, S.A. Paris,
1997 (Pourquoi ? par Stéphane Courtois, trang 816:” Qui n’est pas
avec moi est contre moi – Qui est contre moi doit mourir”
6.Tất cả các nhà phản kháng trong nước như các ông Phạm Quế Dương,
Trần Khuê, Nguyễn Vũ B́nh... đều bị “nhà nước” vu cáo là “gián
điệp”, sau đổi thành “lợi dụng dân chủ”
7.Vũ Thư Hiên,”Đêm Giữa Ban Ngày”.(nhà xuất bản Văn Nghệ,1997),
trang 761:”...Oâng (Trường Chinh) qua đời v́ chấn thương năo trong
một cú ngă ở cầu thang. Có tin ông bị Lê Đức Thọ sai tên bảo vệ ông,
người của Trần Quốc Hoàn, hạ sát...”
Trong chuyến công tác ở miền Nam, sau bữa cơm trưa, Phạm Hùng ngủ
luôn không bao giờ dậy nữa. Nguyễn Thị Định la lớn: ”Tại sao lại như
vầy ?”
Những
ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Tập thơ của một
người lính mang tên... “ Chúc Thư”
Kỷ Niệm Ngày QL
19/6 - Người lính VNCH sau 37 năm nh́n lại...
Đă đến lúc
Việt Nam là của mọi người!
Nói tiếng Anh
Một chữ XẢ
Nỗi ḷng biết
ngỏ cùng ai?
Chỉ tại dấu
"Phẩy"...
Sự căm ghét Chủ
Nghĩa Cộng Sản
Những
hồn hoang nơi pháp trường cát!
Tôi c̣n Nợ...
Chuyện Mũ
Xanh... quanh bàn tṛn
Chuyện đời
Ma thuật của
bọn cuồng sát
Tâm Tình xin
gởi đến toàn thể Anh Chị Cựu Quân Nhân QLVNCH
Nghị quyết 36: Phân
tích và nhận định
Chúng ta là
ai... và chúng ta phải làm ǵ?
Hăy tôn
trọng những người nằm xuống
Người đồng minh
dũng cảm
Đồng Tiền và Chính
Nghĩa
Cảm nghĩ của thế
hệ thứ hai
Người
lính miền Nam và cuộc chiến cũ
Bia tưởng niệm ở
trại tị nạn
Bản chất và hiện
tượng của cs
Tác dụng của nghị
quyết 36
Phê b́nh
một đóng góp cho tiến bộ
Đă đến lúc
Thực chất cuộc
chiến 1955-1975 tại Việt Nam
Chiến thuật kiều vận