NHỮNG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM.

NGUYỄN CHÂU

Cho đến nay, lịch sử thế giới đă ghi nhận Việt Nam là một dân tộc bất khuất, nghĩa là không bao giờ cam tâm làm nô lệ cho một dân tộc khác, dù dân tộc đó hùng mạnh đến mức nàọ Qua lịch sử, có thể nói người Việt đă xem sự chiến đấu chống ngoại xâm để giữ ǵn bờ cơi, bảo vệ toàn vẹn lănh thổ và độc lập dân tộc, là một bổn phận trọng đại nhất trên cả bản thân và gia đ́nh. Hầu hết người Việt đều nặng ḷng yêu quê hương và xứ sở. Quê hương là cái mà dân gian thường gọi là "nơi chôn dau, cắt rốn." Do đó, họ chấp nhận hy sinh tất cả những ǵ thuộc cá nhân để Tổ quốc được độc lập, lănh thổ được vẹn toàn. Chính nhờ ư thức quật cường và tinh thần bất khuất mà trong hơn bốn ngàn năm lịch sử , dân Việt đă đánh bật được bao nhiêu đoàn quân xâm lăng Trung Hoa , một quốc gia láng giềng hùng mạnh , luôn luôn muốn xâm chiếm và đô hộ nước Việt. Tất cả các triều đại Trung Hoa từ nhà Hán , nhà Đường , nhà Tống , nhà Nguyên , nhà Minh rồi nhà Thanh ... vị vua nào cũng lăm le sáp nhập nước Việt vào Trung quốc . Nhưng dù cho họ đă đô hộ dân Việt hơn một ngàn năm , họ vẫn chưa khi nào được ngồi yên để cai trị dân tộc này . V́ lẽ thời nào cũng có người nổi lên chống lại ách thống trị của ngoại bang, để dành lại chủ quyền cho đất nước .

Thật vậy, dưới thời nhà Hán có hai bà Trưng nổi lên dành độc lập , đuổi quân nhà Hán về Tàu ; bà Triệu Trinh Nương đánh quân nhà Ngô ; Lư Nam Đế đánh Tiêu Tư nhà Lương (năm 544) ; Triệu Việt Vương đánh Dương Sàn nhà Lương (549 ); Mai Hắc Đế (722) và Phùng Hưng (791) đánh quân nhà Đường ... Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với trận Bạch Đằng giang lừng lẫy ; Lê Đại Hành đánh bật quân nhà Tống ra ngoài bờ cơ i; Lư Thường Kiệt và Tôn Đản chẳng những chận được bước xâm lăng mà c̣n đem binh Việt đi qua đánh các châu như Ung , Khâm , Liêm ...trên lănh thổ nhà Tống ; Trần Hưng Đạo và quân dân nhà Trần đă đánh thắng quân Mông cổ tức nhà Nguyên ; Lê Lợi đánh tan quân nhà Minh ; Quang Trung Nguyễn Huệ đánh tan quân nhà Thanh ...

Cuối thế kỷ 19, người Tây phương bắt đầu nḥm ngó một số nước Viễn đông . Năm 1856 , hải quân Pháp đă nổ súng bắn phá các đồn lũy của Việt Nam tại cửa biển Đà Nẵng rồi rút đi . Đây là những phát súng gây hấn đầu tiên của Pháp đối với Việt Nam .

Chiến thuyền Pháp tên là Catinat , thuyền trưởng là Leheur de Ville-sur-Arc , cho người đưa thư lên trách triều đ́nh Việt Nam về việc giết những người ngoại quốc truyền đạo Thiên Chúa và những người Việt Nam theo đạo này . Triều đ́nh Việt không trả lời . Sự việc xảy ra vào tháng 8 năm Bính Th́n (1856), Tự Đức năm thứ IX .

Năm 1858 , Trung tướng hải quân Pháp Rigault de Genouilly đem 14 chiến thuyền chở hơn 3,000 quân Pháp và Tây Ban Nha , bắn phá các đồn trấn hải cửa Đà Nẵng , rồi tiến lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải . Triều đ́nh Huế đă cử binh kháng cự , nên mưu đồ chiếm Đà Nẵng rồi đánh Huế của Rigault de Genouilly không thành .

Với ư thức độc lập đân tộc và ư chí bảo vệ đất nước, dân quân triều Nguyễn đă làm hết sức ḿnh để chống Pháp , nhưng đă thất bại trước sức mạnh của vũ khí Âu Tây . Và Pháp bắt đầu đặt ách thống trị Việt Nam từ năm 1862 với Ḥa ước Nhâm Tuất trên sáu tỉnh ở Nam Việt . Rồi ḥa ước Giáp Tuất (1874) Pháp xâm chiếm miền Bắc Việt Nam . V́ t́nh thế , triều đ́nh Huế phải kư những ḥa ước bất b́nh đẳng , chịu thiệt tḥi chủ quyền quốc gia , nhân dân nhiều nơi đă tự động nổi dậy chống thực dân Pháp . Trong Ḥa ước Quí Mùi (1883) Pháp buộc triều đ́nh Việt Nam nhận quyền bảo hộ của Pháp quốc , nhiều quan quân không tuân lệnh chỉ triều đ́nh Huế , tiếp tục đánh quân Pháp khắp nơi ở Bắc Việt . Sau đó, triều đ́nh Việt Nam lại phải kư thêm một Ḥa ước khác , đó là Ḥa ước Giáp Thân (1884) , Pháp gọi la Ḥa Ước Patenôtre , kư vào tháng năm âm lịch .

Một năm sau , quan Phụ chánh Triều đ́nh Huế , Tôn Thất Thuyết chỉ huy quân triều đ́nh tấn công quân Pháp tại Kinh Đô Huế . Tuy không thắng nổi , nhưng cuộc hành quân của Tôn Thất Thuyết đă nói lên tinh thần bất khuất của người Việt Nam . Vua Hàm Nghi trở thành vị vua kháng chiến đầu tiên xuống hịch Cần Vương kêu gọi toàn dân đánh Pháp .

Người Pháp đă đô hộ Việt Nam gần một thế kỷ , đă dùng đủ mọi chính sách và thủ đoạn cai trị , nhưng thực dân Pháp cũng cùng số phận với thực dân Tàu , không bao giờ được yên ổn v́ người Việt Nam :

"Dù cho miệng khóa chân ḱm
Hồn dân vẫn tỉnh, vẫn t́m tự do"
(Vơ Thanh Minh "Những Tiếng Thương Tâm" 1946)

Các phong trào Văn Thân , Đông du , Tây Du , Đông Kinh Nghĩa Thục , Duy Tân , Quốc Dân đảng , Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội vân vân... đă cùng toàn dân nối tiếp công cuộc chống Pháp giành độc lập .

NHỮNG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

TUYÊN NGÔN : là lời nói công khai khẳng định nguyện vọng , ư chí và mục đích của một tập thể , một tổ chức , một quốc gia hay quốc tế . Theo nghĩa này , th́ dân tộc Việt đă có khá nhiều lần "tuyên ngôn" về độc lập dân tộc .

Thật vậy, lịch sử ṇi giống Lạc Việt là một chuổi tiếp nối của tiến tŕnh giành độc lập cho giang sơn và tự do cho dân tộc . Trong diễn tŕnh ấy, người Việt đă nhiều lần nói lên cho các thế lực xâm lăng biết rằng : Chúng tôi có một lănh thổ riêng , một trật tự xă hội được kiến tạo theo một truyền thống của nền văn hóa riêng , không ai có quyền đụng đến . Tùy giai đoạn và hoàn cảnh đấu tranh trong lịch sử , các "Tuyên Ngôn Độc Lập" của Việt Nam khác với các quốc gia khác , chúng được diễn tả dưới nhiều h́nh thức : một câu nói , một bài thơ , một bài hịch , một bài phú , có khi được viết thành bản văn và công bố rộng răi .

1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN :

Tháng chạp năm Bính Th́n (1076) , Nhà Tống đưa quân xâm lăng Đại Việt , Vua Lư Nhân Tông cử tướng Lư Thường Kiệt đem quân chống cự . Trên bờ sông Như Nguyệt (tức sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ) , trước mặt quân đội , Lư Thường Kiệt đă dơng dạc ngâm bốn câu thơ :

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"

Tạm dịch :

Núi sông nước Nam vua Nam ở
Rơ ràng đă định phần trong sách trời
Vậy th́ bất cứ kẻ nào đến xâm phạm
Sẽ thấy ngay sự thất bại trước mắt .

Bài thơ trên mang trọn vẹn ư nguyện của dân tộc Việt , từ đó quân dân nhà Lư đă nức ḷng đánh đuổi quân nhà Tống ra khỏi "Nam quốc sơn hà" ! Đây có thể xem như là một "Tuyên Ngôn Độc Lập" không văn bản nhưng vô cùng khảng khái hùng hồn . Chỉ tiếc một điều là "tuyên ngôn này không dùng tiếng Việt" . Dĩ nhiên là vào thời đó nước Việt chưa có văn tự riêng , nên những người có học thức hay dùng Hán Văn .

2. TUYÊN NGÔN TỪ HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG :

Năm 1284 , sau khi chiếm toàn vẹn Trung Hoa , quân Mông Cổ , đă đem một lực lượng rất hùng hậu sang đánh Đại Việt . Thế giặc nhà Nguyên quá mạnh , sau khi đă họp với các Tướng tại Hội Nghị Quân Sự B́nh Than , Vua Trần Nhân Tông triệu tập đại diện toàn dân tại Hội Nghị Diên Hồng , để hỏi ư dân . Vua đă tŕnh bày t́nh h́nh đất nước đang bị quân Nguyên xâm lăng , dày xéo , rồi hỏi : "Trước nhục nước , nên ḥa hay nên chiến" , các bô lăo đại diện toàn dân đă đồng thanh khẳng định : "Quyết chiến" và xin thề liều thân . Về phía quân đội , th́ qua bài "Hịch Tướng sĩ" của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn , sự khẳng định chủ quyền đất nước rất dứt khoát : Toàn quân , ai nấy đều khắc vào cánh tay hai chữ "Sát Đát" nghĩa là giết giặc Mông cổ ! . Lời tuyên bố "Ta thà làm quỷ nước Nam c̣n hơn làm vương đất Bắc ." của danh tướng Trần B́nh Trọng khi bị quân Nguyên bắt và kẻ thù đem vương tước , bổng lộc ra dụ hàng là một khẳng định về lănh thổ . "Thà làm quỷ nước Nam" là một lời khẳng định về Nước Nam , xác định ḷng thủy chung với Tổ quốc , có thể xem như một tuyên ngôn độc lập trên môi một vị tướng . Chết cho quê hương có giá trị hơn cuộc sống vương hầu dưới ách nô lệ ngoại bang .

3. TUYÊN NGÔN CỦA TƯỚNG TRẦN QUANG KHẢI TẠI THĂNG LONG .

Tháng tư năm Ất Dậu (1285) , Thượng Tướng Trần Quang Khải đem quân đánh đại quân của Thoát Hoan để khôi phục thành Thăng Long . Thăng Long là biểu tượng của giang sơn Đại Việt , là Kinh độ Ngày trước , Kinh đô bị chiếm , coi như là mất nước , mất nền Độc Lập . Do đó , sau khi phá tan quân Nguyên tại bến Chương Dương , giành lại thành Thăng Long , trong tiệc khao quân tại kinh thành , Thượng Tướng đă cao giọng ngâm :

"Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái b́nh nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san !
"


Cụ Trần Trọng Kim dịch:

"Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái b́nh nên gắng sức
Non nước ấy ngh́n thu
"


Tướng Trần Quang Khải đă nhấn mạnh ư niệm "Muôn thuở sông núi này" tức là khẳng định chủ quyền lănh thổ , cần cố sức mà bảo vệ không để quân thù xâm chiếm giang san này !

Sách "Đại Nam Quốc Sử diễn ca" đă ca ngợi hai trận đánh Chương Dương và Hàm Tử v́ đây là những trận đánh quyết định vận mệnh của Kinh đô Thăng Long , cũng như toàn bộ công cuộc kháng Nguyên của quân dân nhà Trần. Đặc biệt là trong cuộc chiến đấu chống quân Nguyên , những "tuyên ngôn" khẳng định nền tự chủ của Đại Việt , đă được các nơi lặp đi lặp lại nhiều lần , mỗi một con dân Việt đều nhắc lại "tuyên ngôn độc lập" theo cách riêng , trong hoàn cảnh của ḿnh , nhưng cốt lơi vẫn là biểu lộ ḷng yêu nước và ư chí tự cường dân tộc .

4. TUYÊN NGÔN TỪ LAM SƠN: B̀NH NGÔ ĐẠI CÁO .

Sau gần 10 năm kháng chiến chống quân nhà Minh (1418-1427) , cuối năm Đinh Mùi (1427) , nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi đă toàn thắng . Nguyễn Trăi đă viết bài "B́nh Ngô Đại Cáo" để thông báo cho khắp nơi biết .

Nội dung của bài B́nh Ngô Đại Cáo có hai phần chính :

- Phần thứ nhất: Khẳng định nền Độc Lập của dân tộc Việt về lănh thổ cũng như về văn hóa và sự b́nh đẳng giữa hai quốc gia Trung Hoa - Đại Việt , trên phương diện địa lư và lịch sử :

"Như nước Việt ta từ trước , vốn xưng văn hiến đă lâu , sơn hà cương vực đă chia , phong tục Bắc , Nam cũng khác . Từ Đinh , Lê , Lư , Trần gây nền độc lập cùng Hán , Đường , Tống , Nguyên ... hùng cứ một phương ."

Đây là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên bằng văn bản của dân tộc Việt , khẳng định một cách hùng hồn rằng : Nước Việt là một quốc gia độc lập , nhất quyết không phải là một châu , một quận ... hoặc một bộ phận của Trung Hoa . Nền Độc Lập này đă được gây dựng từ nhiều đời . Khẳng định thứ hai : "Dẫu cường nhược có lúc khác nhau , song hào kiệt thời nào cũng có" cho nên thắng lợi của dân tộc Việt đối quân Minh là một thắng lợi tất yếu mở đường cho quốc gia tiến lên :

"Giang sơn từ nay mở mặt , xă tắc từ nay vững nền . Nhật nguyệt hối mà lại minh , càn khôn bĩ mà lại thái . Nền vạn thế xây nên chăn chắn , thẹn ngh́n thu rửa sạch làu làu . Thế là trời đất tổ tông khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy ."

-Phần thứ hai: Tố cáo tội ác của nhà Minh đối với nhân dân Việt , và minh xác mục đích cuộc chiến đấu là v́ Đại nghĩa của dân tộc Việ t. Tội ác của nhà Minh :

"Quân cuồng Minh đă thừa cơ tứ ngược (1),
bọn gian tà th́ bán nước cầu vinh .
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn ,
vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ .
Nào lên rừng đào mỏ ,
nào xuống bể ṃ châu ,
nào hố bẫy hươu đen , nào lưới ḍ chim sả .
Tàn hại cả côn trùng thảo mộc ,
nheo nhóc thay ! quan quả điên liên (2) .
Kẻ há miệng , đứa nhe răng ,
máu mỡ bấy no nê chưa chán .
Nay xây nhà , mai đắp đất ,
chân tay nào phục dịch cho vừa .
Nặng nề về những nỗi phu phen ,
bắt bớ mất cả nghề canh cửi .
Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội (3) ;
dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi .
Lẽ nào trời đất tha cho ,
ai bảo thần nhân nhịn được
"

Đại nghĩa của cuộc chiến đấu và tinh thần "Chí nhân" của quân dân Việt :

"...Thế giặc mạnh , ta yếu mà ta địch nổi ,
quân giặc nhiều , ta ít , mà ta được luôn .
Dọn hay :
Đem Đại nghĩa để thắng hung tàn ,
lấy chí nhân mà thay cường bạo ...
Hai mặt cứu binh cắm đầu trốn chạy ;
các thành cùng khấu , cởi giáp xuống đầu .
Bắt tướng giặc mang về ,
nó đă vẫy đuôi phục tội ;
thể ḷng trời bất sát ,
ta cũng mở đường hiếu sinh ...
"

Tinh thần độc lập và ư chí tự cường phát sinh rất mạnh mẽ dưới thời Lê Lợi . Nó đă thể hiện ra trong nhiều cuộc cải cách hành chánh và nhất là xă hội , luật pháp . Trong các triều đại trước , một vài vị vua thường có lệ đem đất đai phân chia cho những người trong gịng hoàng tộc , vua Lê Thái tổ đă làm theo cách khác : lấy công điền , công thổ phân phối đồng đều cho dân chúng . Nhà Lê đă soạn một bộ luật dựa trên văn hóa và phong tục của người Việt . Đó là bộ Luật Hồng Đức . Bộ luật Hồng Đức ngày nay được xem là bộ luật nhân bản và nhân đạo nhất , không có sự vay mượn của Trung Hoa . Về văn hóa , chữ Nôm được khuyến khích cho nên đă có khá nhiều văn thơ quốc âm.

5. TUYÊN NGÔN CỦA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ .

Cuối đời nhà Lê , các vị vua đều niên thiếu nên thường bị các quan đại thần nhiều tham vọng bất chính lấn áp , xui dục làm những việc sai lầm hại dân nhục nước . V́ quyền lợi riêng của ngôi vua , Lê Chiêu Thống đă qua Tàu cầu cứu nhà Thanh . Vua nhà Thanh đă thừa cơ hội đem quân qua xâm chiếm nước Việt . Lê Chiêu Thống đă mất chính nghĩa . Trước cảnh quân Tàu dày xéo non sông , chà đạp giống ṇi , nhân dân đă ủng hộ nhà Tây Sơn , trước đây bị tinh thần hoài Lê ác cảm . Bắc B́nh vương Nguyễn Huệ đă phải lập đàn lên ngôi để nắm đầy đủ chính nghĩa dân tộc hầu có thể tập hợp toàn dân đánh quân Thanh bảo vệ đất nước . Vua Quang Trung đă thân chinh chỉ huy đánh quân Thanh năm 1789 . Lúc quân các đạo hội tại đèo Ba Dội , núi Tam Điệp , trước khi xuất phát tấn công địch quân , các tướng như Ngô Văn Sở , Ngô Thời Nhiệm đến xin tạ tội v́ đă không chống nổi đại quân của nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy , vua Quang Trung cười và nói rằng :"Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi..." Lời tuyên bố đầy lạc quan và tự tin này làm ta liên tưởng đến hai câu của Lư Thường Kiệt : "Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm , Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !"

Tuyên ngôn của vua Quang Trung đă được thực hiện một cách thần tốc : 20 vạn quân nhà Thanh đă bị đánh tan tành trong ṿng chưa tới 10 ngày . Tinh thần độc lập văn hóa đă thúc đẩy Hoàng đế Quang Trung phát triển chữ Nôm . Người Việt phải dùng tiếng Việt đó là mong muốn của vua Quang Trung , không vay mượn tiếng của Tàu . Trong thi cử ra đề bằng chữ Nôm , sĩ tử bị buộc phải làm bài ba(`ng chữ Nôm . Vua Quang Trung c̣n có ư định đ̣i lại đất mà Tàu đă chiếm của Việt từ ngàn xưa đó là hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây . Thời gian trị v́ tuy ngắn ngủi , nhưng Quang Trung Nguyễn Huệ đă phát huy ư thức độc lập về văn hóa , chính trị cũng như lănh thổ . Nhà Tây Sơn mất , nhà Nguyễn trở lại cầm quyền . Chính sách mà vua Gia Long đă áp dụng đă làm mất tinh thần độc lập dân tộc như bỏ luật Hồng Đức , trở lại dùng Hán văn ... việc này đă đem lại một số tai họa cho đất nứớ c: thực dân Pháp đă thừa cơ mở cuộc xâm lăng làm rạn nứt triều đ́nh nhà Nguyễn . Vua Tự Đức cũng rất yêu nước nhưng đă bó tay v́ thế yếu . Vua Hàm Nghi đă đúng về phía nhân dân , từ bỏ cung điện và ngôi vua rút ra chiến khu Tân Sở (Quảng Trị- 1885) , truyền hịch Cần vương kêu gọi toàn dân chống thực dân Pháp , cứu nước . Từ khi vua Hàm Nghi bỏ kinh đô , chủ quyền nhà Nguyễn chỉ c̣n trên danh nghĩa .

6. HỊCH CẦN VƯƠNG CỦA VUA HÀM NGHI .

Hịch Cần vương là bản "Tuyên Ngôn Độc Lập" đầu tiên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp xâm lăng . Nhân dân và sĩ phu khắp nơi đă hưởng ứng lời kêu gọi của vị vua yêu nước, tổ chức vơ trang đánh thực dân khắp nơi từ Bắc vô Nam : Các phong trào Cần Vương và Phong trào Văn Thân đă nhập cuộc . Nhưng , lực bất ṭng tâm , ḷng yêu nước của các tầng lớp sĩ phu đă không thể chống lại sức mạnh của cơ khí và súng đạn của Tây phương lúc bấy giờ . Các vị lănh tụ Cần Vương và Văn Thân lần lượt bị giết , bị bắt , bị tù đày và do đó các phong trào này bị tan ră . Nhưng vốn mang ḍng máu bất khuất nên :

"Dù khi miệng khóa chân ḱm
Hồn dân vẫn tỉnh , vẫn t́m Tự Do
Dân Trưng nữ , chàng Tô bớt ngạo,
Dân Ngô Quyền , Hoằng Tháo hết phương .
Lư Thường Kiệt , Hưng Đạo Vương,
Dân từng phạt Tống , dân từng b́nh Nguyên.
Dân Lê Lợi dẹp yên Minh khấu
Dân Quang Trung tận tảo Thanh binh.
Làm cho Nam định , Bắc b́nh
Dân sinh hạnh phúc , dân quyền tự do ...
"
(Vơ Thanh Minh)


Các phong trào khác đă h́nh thành để tiếp nối công cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc : Phong trào Đông du, Tây du rầm rộ dấy lên . Các sĩ phu cấp tiến đă thay đổi đường lối đấu tranh , hô hào dân chúng học hỏi khoa học kỹ thuật Tây phương , t́m hiểu sự tiến bộ mới để thích ứng hành động với thời cuộc , với thời đại mới . Theo lời kêu gọi của Nguyễn Thượng Hiền , Phan Bội Châu , Tăng Bạt Hổ , Đặng Thái Thân , Phan Chu Trinh ... nhiều thanh niên Việt Nam đă trốn sang Nhật , sang Tàu ... để học hỏi kiến văn mới , nhằm khôi phục quê hương . Kỳ Ngoại Hầu Cường Để được phong trào Đông Du đưa sang Nhật năm 1906 . Sau khi gặp Sào Nam Phan Bội Châu tại Nhật về , Phan Chu Trinh đă cùng với các ông Ngô Đức Kế , Trần Quư Cáp , Huỳnh Thúc Kháng ... phát động phong trào Duy Tân ... Tại miê`n Bắc các Tân đảng lập ra Trường Đông Kinh Nghĩa Thục . Các nhà chí sĩ Việt Nam đă nhận thức được sự cần thiết của tổng lực toàn dân để tấn công địch trên mọi mặt trận từ văn hóa chính trị đến vũ trang . Năm 1908, hàng vạn dân chúng Quảng Nam biểu t́nh bao vây ṭa khâm sứ Pháp đ̣i giảm thuế ... phong trào nay lan rộng ra khắp nơi (tiếc thay đă bị lợi dụng bởi những người theo Cộng sản) .

7. TUYÊN NGÔN TỪ YÊN BÁY :

Năm 1930 , tuyên ngôn "Việt Nam Vạn Tuế" của lănh tụ Việt Nam Quốc Dân đảng tại Yên Bái , tiếng hô vang dội đất nước làm rung động muôn ḷng cùng chung ư chí chống thực dân dành độc lập . Tiếng hô ấy nói lên một cách hùng hồn khát vọng sâu xa của dân tộc . Do đó , nó đă un đúc tiềm tàng làm bùng lên cuộc khởi nghĩa mùa Thu 1945 nhằm đối tượng kẻ thù chung là thực dân Pháp . V́ có chung kẻ thù nên các phong trào quốc gia không quan tâm đến khuynh hướng riêng của người lănh đạo cuộc khởi nghĩa và người cộng sản đă lợi dụng t́nh thế "chớp lấy thời cơ" dành quyền lănh đạo độc tôn .

8. TUYÊN NGÔN TẠI BA Đ̀NH 1945 .

Sau khi Mặt trận Việt Minh cùng với toàn dân Việt không phân biệt giai cấp và chính kiến đánh thực dân Pháp giành lại được chính quyền vào tháng 8 - 1945 , đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh lănh đạo , đă dùng mưu mô và bạo lực , cướp hết công lao chiến đấu của toàn thể quốc dân . Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố " Thà làm dân một nước độc lập c̣n hơn làm vua nô lệ" rồi thoái vị . Chính quyền vào tay Hồ Chí Minh và các đảng viên Cộng sản . Việt Minh tôn Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa , cũng đưa ra một Bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào năm 1945 . Nội dung như sau :

"Hỡi đồng bào cả nước , Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng . Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy , có quyền được sống , quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc ." Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ . Suy rộng ra , câu ấy có ư nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng , dân tộc nào cũng có quyền sống , quyền sung sướng và quyền tự do . Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Kách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn tự do và b́nh đẳng về quyền lợi . Đó là lẽ phải không ai chối căi được.... V́ những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đă thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy ."

(Ba đ́nh ngày 2-9-1945)

Gọi là Tuyên Ngôn Độc Lập, nhưng thực chất nội dung của bản văn đó chỉ là một bản "tuyên bố những nguyên tắc cai trị", ư tưởng và h́nh thức rập theo mẫu của phần mở đầu các bản Hiến Pháp hay các Điều Ước của Pháp và nhất là Mỹ . Không có phần nói về dân tộc . Bản Tuyên Ngôn này không được nhân dân hân hoan đón nhận v́ có phần xa cách với truyền thống t́nh cảm dân tộc . (Hồ Chí Minh là đảng viên trung thành của Quốc Tế Cộng Sản th́ làm ǵ có độc lập quốc gia . Đọc xong cái gọi là tuyên ngôn độc lập , một năm sau , chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa rút vào rừng , sau khi kư hiệp ước đón quân đội thực dân Pháp trở lại Hà Nội và bị Pháp đánh bại . Sau 1954 , cộng sản đă tḥ nanh vuốt Cộng sản sắc lẽm ra trong cuộc đấu tố địa chủ , trí thức và đấu tranh giai cấp theo chủ thuyết Mác-xít (Marxism) giết hại hàng chục ngàn nông dân bị xem là địa chủ , hàng chục ngàn cán bộ bị quy thành địa chủ ... trong đó có thân phụ của Trường Chinh , một đảng viên cộng sản cao cấp . Ông này đă đưa cha ruột của ḿnh ra đấu tố làm gương , để gây phong trào . Từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa , Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản của ông đă đẩy toàn dân vào cuộc chiến tranh ư thức hệ đầy máu lệ để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế do Cộng sản đệ tam quốc tế ủy nhiệm . Cho đến ngày nay , hầu hết nhân dân trong nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa vẫn chưa được quyền hưởng tự do , quyền sung sướng và độc lập của đất nước cũng chỉ là trên lời nói .

Tổng kết , trong lịch sử Việt Nam , người dân đă có hơn 20 lần đứng lên vơ trang đánh đuổi xâm lăng .

NGUYỄN CHÂU