Tưởng Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè
Đỏ Lửa: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (1929-2007)
Nguyễn Kỳ Phong
Tháng
8, 1969: Trong một buổi thuyết tŕnh dành riêng cho đại sứ Hoa Kỳ ở
Lào, G. McMurtrie Godley, đại tướng tư lệnh MACV, Creighton Abrams,
nói về t́nh h́nh quân sự và t́nh h́nh của các đơn vị chủ lực của
Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa (QLVNCH). Về Vùng I, tướng Abrams nói,
"Chúng ta có Sư Đoàn 1 ở đây. Sư Đoàn này có 17 Tiểu Đoàn tác chiến.
Đây là Sư Đoàn loại hạng nhất; Sư Đoàn có những quân nhân thượng
thặng trên cả nước. Đơn vị có cấp chỉ huy giỏi, từ Tiểu-Đoàn-Trưởng
cho đến Tư-Lệnh Sư Đoàn. Người Tư-Lệnh Sư Đoàn -- tôi không nghĩ
QĐVNCH có một người Tư-Lệnh như ông ta; giỏi về chiến thuật; một
người dẫn đầu làm gương".
Hơn một năm sau, tháng 10 năm 1970, trong buổi thuyết tŕnh dành
riêng cho giám đốc CIA, Richard Helms, Đại tướng Tư-Lệnh-Phó MACV,
Frederick Weyand, nói, “Trưởng ... tôi không cần phải nói nhiều về
ông ta v́ khả năng của ông đă được biết. Từng là Tư-Lệnh Sư Đoàn 1,
nếu nói về cấp số quân, ông ta đă chỉ huy hơn hai Sư đoàn. ... Lâu
nay ông đă chứng tỏ được khả năng chỉ huy; không ai lung lay ông
được. Từ lúc xuống coi Vùng IV, với cá tính năng động, ông đă đề ra
những kế hoạch ưu tiên phải thực hiện -- ông đă đem lại nhiều phấn
khởi cho Vann [John Paul Vann, Chỉ Huy Trưởng Xây Dựng và Phát Triển
Nông Thôn, Vùng IV] và McCrown [Thiếu tướng Hal D. McCrown, cố vấn
trưởng Vùng IV] ngoài sức tưởng tượng.”
Người chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 và vị tư lệnh Quân Đoàn IV được nhắc
đến, là Trung tướng Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh Quân Đoàn IV, và
sau đó, Quân Đoàn I. Trung tướng Trưởng đă từ trần ngày 22 tháng 1,
2007, tại Fairfax, Virginia, hưởng thọ 78 tuổi.
Lời b́nh phẩm của hai vị đại tướng Abrams và Weyand, là hai trong
nhiều lời b́nh phẩm và khen ngợi về khả năng chỉ huy của tướng
Trưởng, đến từ nhiều sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ trong thời gian họ phục
vụ ở Việt-Nam. Một trong những lời ca tụng cao quư nhất dành cho
tướng Trưởng đến từ Tham-Mưu-Trưởng Liên Quân Earl G.Wheeler. Tháng
7, 1969, trong cao điểm của chương tŕnh Việt-Nam Hóa, tướng Wheeler
đến Việt-Nam thăm viếng và hội thảo với đại tướng Cao Văn Viên. Khi
nói về chương tŕnh gia tăng quân số cho QLVNCH, tướng Wheeler nói ư
nghĩ của ông với tướng Viên: cách gia tăng nhanh chóng sự hữu hiệu
của QLVNCH là không phải tạo ra thêm nhiều đơn vị mới, mà là tạo
thêm ra nhiều anh hùng trong đơn vị. Giống như ở Sư Đoàn 1, một sư
đoàn đang hoạt động rất hữu hiệu. Cái quư trọng đáng nói về những
lời khen ngợi này, là tất cả cuộc đối thoại nói về tướng Trưởng đều
xảy ra trong ṿng bí mật giữa các tướng lănh cao cấp Hoa Kỳ; họ nói
về tướng Trưởng trong ṿng kín đáo riêng tư chứ không phải những lời
khen thưởng, khích lệ tinh thần ngoài công cộng Đó là vinh dự cho
một vị tướng mà theo lời của đại tướng Norman Schwarzkopf -- người
đă gọi tướng Trưởng là bậc thầy -- “không cao lớn, không đẹp trai
... không có vẽ ǵ là một thiên tài quân sự”.
Tướng Ngô Quang Trưởng sanh ngày 13-12-1929, tại Giao-Thanh, tỉnh
Bến-Tre, trong một gia đ́nh được coi là khá giả ở miền Nam. Sau khi
hoàn tất bậc Trung học ở trường Trung Học Mỹ-Tho, ông gia nhập
trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức. Ra trường tháng 6 năm 1954, tân Thiếu
úy Ngô Quang Trưởng đậu hạng 162 trên 1148 tân sĩ quan của Khóa 4.
Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức (ra trường cùng thời gian với khóa 10
trường Vơ Bị Liên Quân Đa-Lạt) là một trong những khóa sĩ quan đông
nhất và đào tạo nhiều sĩ quan sau này là rường cột của QLVNCH. Cùng
khóa 4 với tướng Trưởng là các tướng Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Hồ
Trung Hậu, Nguyễn Văn Điềm, Vũ Văn Giai. Những người bạn cùng khóa
c̣n lại là những sĩ quan chỉ huy trưởng quan trọng của các Sư đoàn,
Lữ đoàn, như Nguyễn Trọng Bảo, Liêu Quang Nghĩa, Tôn Thất Soạn,
Nguyễn Thu Lương, Nguyễn Thế Lương, Hoàng Tích Thông, Lê Cảnh Dị,
Phạm Hy Mai, Nguyễn Viết Cần… Một số những sĩ quan nói trên hoặc đă
hy sinh v́ tổ quốc, hoặc đă trải qua một thời gian dài đầy cay đắng
trong lao tù Cộng sản chỉ v́ có tội trung thành với tổ quốc của họ.
Ra trường, tướng Trưởng chọn binh chủng Nhảy Dù, và được chỉ định về
phục vụ ở tiểu đoàn 5, tiểu đoàn mà chưa đến một năm trước đó đă
chiến đấu đến viên đạn cuối cùng; tiểu đoàn của đại úy Phạm Văn Phú,
của những đồi Eliane, Dominique, ở Điện-Biên-Phủ. Trừ cấp bực Đại úy
được chánh phủ thăng thưởng chung cho nhiều sĩ quan có thâm niên
quân vụ đến thời gian đó (1 tháng 11,1961), tất cả cấp bực về sau,
tướng Trưởng được đặc cách ngoài mặt trận, hay được đích thân tư
lệnh chiến trường, tư lệnh quân đội, vinh thăng. Vinh quang đầu tiên
của tướng Trưởng xảy ra vào cuối tháng 2 năm 1964, khi tiểu đoàn 5
của Nhảy Dù đánh vào mật khu Đỗ-Xá (Đỗ-Xá là một địa danh nằm ngay
biên giới của ba tỉnh Quảng-Ngăi, Quảng-Tín và Kontum), ở Vùng I.
Với chiến thắng này, cố Đại tướng Đỗ Cao Trí (lúc thiếu tướng Trí
coi Vùng I) đích thân đặc cách Thiếu tá nhiệm chức cho tướng Trưởng.
Giữa tháng 6-1964, ông được lên Thiếu tá thực thụ -- một cấp bực rất
hiếm trong những năm đó cho một sĩ quan với mười năm quân vụ.
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, năm 1963, trong khi thủ đô Sài-G̣n
sôi sục với những biến động chính trị, th́ những người quân nhân
thuần túy vẫn thi hành nhiệm vụ của họ ở chiến trường. Hoạt động của
Cộng sản gia tăng mạnh. Với những yểm trợ vũ khí và huấn luyện của
các đơn vị chánh quy xâm nhập từ miền Bắc vào, Việt Cộng bây giờ đă
có đủ quân và vũ khí để đánh cấp Trung đoàn nếu không nói là Sư
đoàn. Cuối năm 1964 đầu năm 1965, sau khi phục kích và đánh thiệt
hại hơn ba phần tư tiểu đoàn 4 TQLC và một tiểu đoàn Biệt Động Quân
ở B́nh-Giả, Phước-Tuy, Cộng sản tụ quân lại chung quanh địa cứ đó để
biểu dương lực lượng. Bộ Tổng Tham Mưu lập tức khởi động chiến dịch
Nguyễn Văn Nho, cho hai tiểu đoàn Nhảy Dù, ba Tiểu đoàn TQLC và một
chi đoàn thiết giáp trở lại B́nh-Giả truy lùng các đơn vị cộng sản.
Nhưng khi thấy lực lượng hùng hậu đó, các đơn vị cộng sản lẫn tránh
giao tranh. Nhưng cùng lúc, theo tin tức t́nh báo đến từ thiếu tá Lê
Đức Đạt, tỉnh trưởng Phước-Tuy, Cộng sản sẽ đem ba cố vấn Mỹ mà họ
bắt được trong trận B́nh-Giả trước đó, diễn hành như một chiến thắng
cho dân chúng địa phương coi (trong trận B́nh-Giả, Hoa Kỳ có 5 tử
trận, 8 bị thương, và 3 mất tích). Tin tức này cũng được MACV xác
nhận: MACV cho biết máy bay thám thính xử dụng hồng ngoại tuyến đă
chấm được tọa độ đóng quân của cộng sản ở chung quanh xă B́nh-Giả và
Hắc-Dịch (B́nh-Giả, B́nh-Ba, Ngăi-Giao và Hắc-Dịch, là bốn xă tạo
thành Tổng-Cơ-Trạch. “Tổng” là một đơn vị hành chánh cho một vài
vùng lúc đó. Có nhiều sách địa lư gọi là Hác-Dịch). Với tin tức cung
cấp, Sài-G̣n quyết định trở lại truy lùng các đơn vị c̣n lẩn quẩn
chung quanh B́nh Giả thêm một lần nữa. Lần này lực lượng tấn công là
ba tiểu đoàn Nhảy Dù. Ngày 9 tháng 2-1965, tiểu đoàn 5 của Ngô Quang
Trưởng; tiểu đoàn 6, Vũ Thế Quang; và Tiểu đoàn 7, Ngô Xuân Nghị,
nhảy vào Hắc-Dịch. Tiểu đoàn 5 và 6 là lực lượng chánh tấn công,
tiểu đoàn 7 đi sau lưng để yểm trợ và chận không cho các đơn vị cộng
sản thoát ra liên tỉnh lộ 15. Theo đại tá Nguyễn Thu Lương kể lại --
lúc đó là Đại úy Tiểu-Đoàn-Phó Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù -- khi tiểu đoàn
5 đă nhận ra và tiến về mục tiêu là một ngôi làng có tên là
Phước-Chi, Cộng sản cho đốt rừng tre và cỏ tranh trước mặt hướng
tiến quân. Họ hy vọng khi lính Dù thấy lửa cháy trước mặt th́ sẽ
quay đầu lại t́m hướng khác tấn công ... và cộng quân sẽ bất ngờ
phục kích khi lính tiểu đoàn 5 đi ngược lại. Nhưng Tiểu đoàn trưởng
Ngô Quang Trưởng không cho lính quay lại: ông ra lệnh xung phong
thẳng qua thế hỏa công của địch, đánh thẳng vào bộ chỉ huy cộng sản
trước mặt, ở phía sau đám lửa đốt ngụy công đó. Và kết quả của trận
chiến? Theo tiểu đoàn trưởng Vũ Thế Quang, ..."Ông Trưởng đă đánh
một trận để đời; đánh tan lực lượng Việt Cộng ở Hắc-Dịch. Và tên ông
Trưởng được nhắc đến nhiều từ trận đó"ù. Theo báo chí Hoa Kỳ tường
tŕnh lại, trong trận này, tướng Trưởng và lính tiểu đoàn 5 Dù đă
cứu được vị Đại úy Mỹ cố vấn tiểu đoàn. Đại úy Thomas B.
Throckmorton là con trai của Trung tướng John L. Throckmorton, Tư
Lệnh Phó cho Đại tướng William Westmoreland, đương kim Tư-Lệnh MACV.
(Cũng muốn nói thêm ở đây, tướng Trưởng h́nh như có duyên với những
sĩ quan Mỹ cố vấn cho ông: Trong thời gian ở Sư Đoàn Nhảy Dù, ba
người cố vấn đều là con của tướng hay là trở thành tướng của quân
đội về sau. Sau Đại úy Throckmorton là Thiếu tá Schwarzkopf. Thân
phụ của Schwarzkopf là chuẩn tướng; và chính ông th́ trở thành đại
tướng. Sau Schwarzkopf là Thiếu tá Guy S. Meloy, III. Cha của Meloy
lúc đó là Đại tướng ở Mỹ; và Meloy sau này cũng trở thành một vị
tướng, coi Sư Đoàn 82 Nhảy Dù trước khi về hưu.)
Nhưng cũng theo Đại tá Quang, chiến thắng của Nhảy Dù, của Tiểu đoàn
5, không được báo chí loan tin, hay nhắc đến rầm rộ, v́ những biến
động chính trị ở Sài-G̣n đă lấy đi tất cả sự chú ư lúc đóù. Nhận
định và quan sát của đại tá Quang về chiến thắng bị bỏ quên của
tướng Trưởng không xa sự thật. Tháng 2 của năm 1965 là một tháng đầy
biến động ở miền Nam: Tướng Nguyễn Khánh vừa bị Hội Đồng Quân Nhân
hạ bệ và muốn ông ta rời khỏi Việt Nam; nội các của Thủ tướng Trần
Văn Hương thay đổi nhân sự tới lui và có thể bị thay thế. Năm
1964-65 là năm mà Trung úy TQLC Trần Ngọc Toàn -- người đă thoát
chết trong trận B́nh-Giả -- gọi là năm của những sĩ quan cao cấp
ngồi ở nhà tranh luận và bảo vệ vị thế chính trị cá nhân, trong khi
các sĩ quan cấp nhỏ th́ đang chết ở chiến trường bảo vệ họ; năm
1964-65 có nhiều đảo chánh – hay tin đồn đảo chánh -- đến độ tác giả
Nhảy Dù Phan Nhật Nam, khi cho người lính trong trung đội vắng mặt
một chút, nhưng căn dặn phải trở lại đơn vị ngay “khi nghe nhạc đảo
chánh trổi lên trên đài phát thanh”. Trong khi tờ tường tŕnh về
chiến thắng Hắc-Dịch chưa kịp gởi về Hoa-Thịnh-Đốn, th́
Hoa-Thịnh-Đốn đă quan tâm, lo lắng, về những thiệt hại ở trận
B́nh-Giả, và họ chuẩn bị gởi quân tác chiến qua Việt-Nam, dựa vào tờ
tường tŕnh của CIA gởi về Hoa-Thịnh-Đốn hai tuần trước. Nhưng cũng
có thể, trong tuần lễ thứ nh́ của tháng 2 năm đó, QLVNCH đang hân
hoan về một chiến thắng khác lớn hơn, quan trọng hơn: ngày 16 tháng
2, ở Vũng-Rô, Phú-Yên, Không Quân VNCH đă đánh ch́m một chiếc tàu
sắt, chở hàng trăm tấn vũ khí từ miền Bắc vào tiếp tế cho cộng sản ở
miền Nam. Với số vũ khí tịch thu được ở Vũng Rô, sự quên lăng của
báo chí về trận Hắc-Dịch có thể hiểu được.
Chưa nhạt mùi thuốc súng ở Vùng III, tháng 3-1965, tướng Trưởng đem
tiểu đoàn trở lại Vùng I đánh trận Thăng-B́nh. Chiến thắng ở
Thăng-B́nh có sự quan sát của một sĩ quan sau này trở thành đại
tướng: Norman Schwarzkopf. Tướng Schwarzkopf lúc đó là thiếu tá cố
vấn của tiểu đoàn. Hai mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đă tàn; miền
Nam đă thất thủ, tướng Schwarzkopf vẫn không quên ấn tượng ông thấy,
và bài học ông học được về lối điều binh của tướng Trưởng. Năm 1995
khi tướng Schwarzkopf trở lại Việt-Nam thăm chiến trường cũ, ông có
thực hiện một chương tŕnh truyền h́nh cho một hăng thông tấn. Chiếu
lại địa h́nh của trận Thăng B́nh ông nói, khi tiểu đoàn lọt vào địa
cứ của cộng sản, quân địch tràn ra đánh. Tiểu đoàn 5, dù bị thiệt
hại, nhưng họ chấp nhận và tiếp tục xung phong và chiếm được mục
tiêu.... Lính của tướng Trưởng đánh như để thử thách đối phương; để
chứng tỏ họ không sợ đối phương (trong trận này, y sĩ tiểu đoàn là
bác sĩ Đỗ Vinh bị tử trận. Bệnh viện Nhảy Dù Đỗ Vinh là tên của vị y
sĩ này). Nhưng sự khâm phục của một vị tướng tương lai không quan
trọng bằng sự hài ḷng của một vị tướng đang quan sát mặt trận:
Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi đang là tư lệnh Vùng I. Với tiểu đoàn
chiến thắng là tiểu đoàn cũ của ḿnh 10 năm trước (tướng Thi coi
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù tháng 5-1955), tướng Thi đặt cách cho tướng
Trưởng lên trung tá.
Lên Trung tá trong những năm của thập niên 1960 là niềm vui, một sự
hănh diện, nếu người đó không c̣n thích làm tiểu đoàn trưởng hay
thích đi tác chiến. Vào thời đó, Tiểu-Đoàn-Trưởng -- commandant;
chef de bataillon; hay chef d’escadron -- chỉ là Thiếu tá. Trên
Thiếu tá th́ … phải đi t́m một việc khác! Lên Trung tá, tướng Trưởng
được gọi về làm Tham-Mưu-Trưởng Sư đoàn. Nhưng làm về tham mưu không
phải là việc làm tướng Trưởng thích. Và ông để lộ ra ư nghĩ đó vài
tháng sau, khi được chỉ định làm Tư-Lệnh-Phó Sư đoàn Nhảy Dù.
Giữa tháng 5 năm 1966 một biến cố xảy ra làm thay đổi cuộc đời của
tướng Trưởng. Những biến động đồn dập ở miền Trung gây ra nhiều sự
lo âu cho chính quyền trung ương Sài-G̣n. Sài-G̣n thay sáu Tư -Lệnh
Vùng I trong ba tháng, nhưng t́nh h́nh vẫn không thay đổi. Hội Đồng
Quân Nhân quyết định dùng quân đội để tái lập trật tự. Tướng Trưởng,
đang là Đại tá Tư -Lệnh-Phó Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Dư
Quốc Đống, đem 5 tiểu đoàn Nhảy dù cùng Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan
đưa Cảnh Sát Dă Chiến cùng TQLC ra vùng I để tái lập trật tự. Từ
giai đoạn này đến ngày tướng Trưởng rời binh chủng Nhảy Dù để về làm
Tư-Lệnh Sư đoàn 1, chúng ta không biết chuyện ǵ xảy ra -- về phương
diện tài liệu có được.
ĐàNẵng, tháng 8-1972. Mặc dù đang chuẩn bị kế hoạch tái chiếm Quảng
Trị, tướng Trưởng bỏ th́ giờ đến chào tiển biệt và gắn huy chương
cho các binh sĩ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh (Americal Divison) đang trên
đường hồi hương trong chương tŕnh Việt Nam Hoá.
Chúng ta không biết tướng Trưởng bị hay được chỉ định thay thế Chuẩn
tướng Phan Xuân Nhuận, Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, sau khi tướng
Nhuận và một số sĩ quan cao cấp của Vùng I bị đưa ra hội đồng kỷ
luật. Theo những người quen với tướng Trưởng kể lại, tướng Trưởng đă
lưỡng lự tạm thời nhận chức tư lệnh một sư đoàn bộ binh v́ ông không
muốn rời màu áo của lính Dù. Tướng Trưởng từ Sài-G̣n đi máy bay ra
Huế để nhận nhiệm sở mới. Và để giới thiệu với đơn vị mới cùng người
dân địa phương ḿnh là lính Dù, tướng Trưởng nhảy duø xuống Huế để
nhận nhiệm sở. Nhưng nhảy dù biểu diễn đôi khi có nhiều rũi ro hơn
là nhảy dù vào trận địa. Ngày hôm đó chắc trẻ con và dân chúng Huế ở
hai bên bờ sông sẽ reo ḥ thích thú khi thấy một người lính Dù đáp
xuống nước giữa sông Hương! Theo lời của đại tá Tôn Thất Soạn, lúc
đó đang cùng đại tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy các đơn vị TQLC đang có
mặt ở Huế, một chiếc thuyền máy chờ sẵn trên sông chạy đến vớt tướng
Trưởng lên. Từ sông Hương, TQLC dùng hai xe Jeep hộ tống tướng
Trưởng vào thành nội Huế để nhận chức tư lệnh đầu tiên của ông.
Trong thời gian chỉ huy Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tướng Trưởng được nhiều
sĩ quan Hoa Kỳ chú ư. Trong hồi kư A Soldier Reports, Westmoreland
nói ông nhận được nhiều báo cáo tốt về Sư Đoàn 1 và người tư lệnh.
Tướng Westmoreland đi xa hơn khi ông viết, “Nhiều tướng lănh nói cho
tôi biết họ tin vào khả năng của tướng Trưởng đến độ họ nghĩ ông có
thể chỉ huy một sư đoàn lính Mỹ được”. Năm 1999 khi tác giả Lewis
Sorley cho ra tác phẩm A Better War, và sau đó, năm 2004, The Abrams
Tapes, chúng ta mới đọc được nhiều lời b́nh phẩm về tướng Trưởng
giữa các tướng lănh cao cấp Mỹ ở bộ tư lệnh MACV. Lư do phải chờ
những cuốn sách nói trên ra đời để biết thêm những nhận định về
tướng Trưởng, là v́ phần lớn những nhận định xảy ra trong những cuộc
đàm thoại bí mật ở MACV. Hai tác phẩm của nhà quân sử Sorley phần
lớn dựa vào những tài liệu giải mật của bộ tư lệnh MACV.
Tướng Trưởng được thăng chức Chuẩn tướng khi đang chỉ huy Sư Đoàn 1
năm 1967. Sau trận Mậu Thân 1968, tổng thống Thiệu thăng cấp tướng
cho một số tướng lănh -- một số tướng v́ có công trạng, và một số
tướng được thăng chức để củng cố thế lực của Tổng thống Thiệu trong
quân đội. Chuẩn tướng Trưởng có tên trong danh sách được thăng
thưởng. Tướng Trưởng mang lon Thiếu tướng vào mùa thu năm 1968. Mùa
xuân năm 1970, khi QLVNCH chuẩn bị đánh qua Cam Bốt, trong một lần
nói chuyện giữa Tổng thống Thiệu và Đại tướng Abrams, ông Thiệu nói
với tướng Abrams là ông muốn thay đổi một số tư lệnh sư đoàn và quân
đoàn, và theo ư kiến của tướng Abrams th́ ai xứng đáng cho những
chức vụ Tư-Lệnh mới. Đại tướng Abrams nói ông không hiểu hay biết
nhiều về tâm lư người Việt Nam. Nhưng với tất cả sự thiếu hiểu biết
của một người Mỹ, ông nghĩ tướng Trưởng là người xứng đáng nhất; một
người tướng có khả năng về mọi mặt, nhất là về b́nh định nông thôn,
một chương tŕnh mà chính phủ VNCH cần phải thực hiện nhanh. Trước
đó, trong một lần nói chuyện với đại tướng Cao Văn Viên, tướng
Abrams có so sánh lối chỉ huy của tướng Trưởng với lối chỉ huy của
một vị tướng tư lệnh sư đoàn khác cũng có khả năng như tướng Trưởng.
Nghe xong, tướng Viên giải thích cho tướng Abrams về sự khác biệt
giữa hai ông tướng: khi tướng Trưởng ra một quân lệnh nào đó, ông sẽ
đích thân đi ra các cấp đơn vị từ nhỏ đến lớn để coi lệnh của ông có
được thi hành không; trong khi người tướng kia th́ chỉ để cho sĩ
quan dưới quyền hành sự. Sau này, qua những ǵ sĩ quan báo cáo lại,
Tướng Abrams nghĩ nhận xét của đại tướng Viên là đúng. Và sau này,
vào năm 1972, khi tướng Trưởng ra chỉ huy Vùng I, hai người cố vấn
Mỹ ở quân đoàn đều thấy lối làm việc của tướng Trưởng: quân lệnh lúc
nào cũng đi kèm với sự hiện diện của ông ở mọi cấp của đơn vị. Trong
khi Tổng thống Thiệu c̣n đang lưỡng lự với quyết định chọn lựa các
Tư lệnh Quân đoàn, th́ một biến cố xảy đến bắt ông phải quyết định:
Ngày 20 tháng 5-1970, Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Vùng IV
bị tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt. Tổng
thống Thiệu bổ nhiệm thiếu tướng Ngô Dzu thay cố Trung tướng Thanh ở
Vùng IV. Nhưng chỉ ba tháng sau, v́ một lư do nào đó, Tổng thống
Thiệu đưa tướng Dzu lên coi Vùng II, và chỉ định Thiếu tướng Trưởng
về Vùng IV.
Vùng IV tương đối được yên tĩnh trong thời gian tướng Trưởng ở Vùng
IV. Trong thời gian này ông đă khích động tinh thần của binh chủng
Nghĩa Quân và Địa Phương Quân -- một binh chủng cho đến thời gian đó
gần như bị bỏ quên trong cấp số của QĐVNCH. Ông cố gắng hiện đại hóa
binh chủng này, và tuyên bố, trên đường dài của cuộc chiến, Nghĩa
Quân và Địa Phương Quân sẽ là lực lượng rường cột của quân đội trên
đường dài. Mùa hè năm 1972 chứng minh nhận định của tướng Trưởng:
trong cao điểm của cuộc tổng tấn công vào miền Nam, từ ngày 1 tháng
4 đến ngày 10 tháng 6, các đơn vị chủ lực của QLVNCH bị thiệt hại 23
ngàn quân, so với 14 ngàn của Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Phần
lớn 14 ngàn thương vong này xảy ra ở Vùng IV. Trong thời gian ở Vùng
IV, ông cũng phát động nhiều cuộc hành quân vào các chiến khu mà từ
trước được coi là vùng bất khả xâm phạm của cộng quân. Đầu năm 1971,
ông ra lệnh cho Trung đoàn 33/ Sư Đoàn 21, vào chiếm chiến khu
U-Minh-Thượng và lập nhiều đồn bót ở đó. Khi đại sứ Bunker xuống
viếng thăm, ông hỏi tướng Trưởng sẽ định đóng quân ở mật khu U Minh
Thượng đó bao lâu, “Ở lại luôn”, tướng Trưởng trả lời. Ngoài mật khu
U-Minh-Thượng, hai Sư Đoàn 7 và 9 của quân đoàn cũng tấn công và
thiết lập sự hiện diện thường trực ở các mật khu Thất-Sơn, Đầm-Dơi,
và Đồng-Tháp.
Nhưng sự b́nh yên của Vùng IV không kéo dài để tướng Trưởng hưởng
thụ những thành quả, hay tiếp tục thực hiện những kế hoạch mà ông dự
định cho Vùng IV. Mùa xuân năm 1971 ông nghe ngóng tin tức của cuộc
hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Lào với nhiều lo lắng. Năm đó ông
cũng rất buồn khi tiễn đưa một chỉ huy trưởng cũ ra đi vĩnh viễn:
trung tướng Đỗ Cao Trí, cựu Tư Lệnh Nhảy Dù bị tử nạn trực thăng vào
ngày 23 tháng 2-1971, trong khi chỉ huy quân của Vùng III đánh qua
Cam Bốt lần thứ hai. Ngoài tướng Trí, ông cũng mất một số bạn bè
Nhảy Dù ở Hạ Lào.
Thứ Năm, 30, tháng 3-1972, cộng sản tấn công qua vùng quân sự ở Vùng
I. Vài ngày sau, các cuộc tổng tấn công cũng bắt đầu ở Vùng II và
III. Ở Vùng IV, Cộng quân đă có nhiều hoạt động chuẩn bị cho cuộc
tổng công kích từ giữa tháng 3. Theo lời tướng Trưởng kể lại, Cộng
quân di chuyển Sư Đoàn 1 và chừng sáu Trung đoàn độc lập khác ra
khỏi căn cứ của chúng để chuẩn bị tiến về mục tiêu. Trong suốt tháng
4, cộâng quân tấn công vào 5, 6 tỉnh của Vùng IV, nhưng các cuộc tấn
công không đủ mạnh để gây lo lắng cho QLVNCH như họ đang lo lắng cho
ba Vùng c̣n lại, nhất là Vùng I. Ngày 2 tháng 5-1972, Quảng Trị thất
thủ. Ngày hôm sau, 3 tháng 5, Tổng thống Thiệu triệu tập các tư lệnh
Vùng về họp ở dinh Độc Lập. Trong buổi họp tổng thống Thiệu chỉ định
thiếu tướng Trưởng ra thay tướng Hoàng Xuân Lăm ở quân đoàn I với
chức Trung tướng Tư -Lệnh Quân Đoàn. Đúng một tuần sau, tổng thống
Thiệu chỉ định Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn -- đang là Ttư Lệnh Phó
cho tướng Trưởng -- về thay Trung tướng Ngô Dzu ở quân đoàn II.
Tướng Trưởng bay ra Huế cùng ngày nhận được lệnh. Khi đến Huế th́
t́nh h́nh Vùng I đă bi quan rồi. Chúng ta có thể thay chữ bi quan
bằng chữ bi đát ở đây. Ngày hôm sau, ông ra lệnh lập bộ Tư Lệnh iền
phương của Quân đoàn ở hướng bắc thành phố Huế. Đồng thời ông ra
lệnh tất cả các quân nhân đang đi lạc khỏi đơn vị, hay không c̣n đơn
vị để trở về, phải t́m cách tŕnh diện thẩm quyền quân sự lập tức.
Mọi sự bất tuân thượng lệnh sẽ bị trừng phạt ngay tại chổ. Sau khi
phân chia vùng trách nhiệm tác chiến cho các đơn vị đă được ổn định,
tướng Trưởng tái huấn luyện, tái trang bị lại cho các đơn vị bị tan
ră một tháng trước đó. Trong khi chờ đợi các đơn vị hoàn phục lại
sức tác chiến, ông xử dụng hỏa lực của Hải quân và Không quân Hoa Kỳ
để phá hủy các điểm tập trung quân của cộng sản. Trong tháng 5, sau
khi được bộ tổng tham mưu tăng viện cho hai Lữ đoàn Dù, tướng Trưởng
bắt đầu chuyển từ thế pḥng thủ qua thế tấn công giới hạn. Tấn công
giới hạn ở đây có nghĩa là ông dùng trực thăng vận để bất thần đột
kích sau lưng những đơn vị Cộng sản. Với không vận cung cấp từ TQLC
Hoa Kỳ, tướng Trưởng cho những tiểu đoàn của TQLC và Sư Đoàn 1 đột
kích sau lưng địch. Hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 369 TQLC nhảy vào
Hải-Lăng; Lữ đoàn 147 vừa đổ bộ bằng tàu lên Mỹ-Thủy, vừa đổ bộ bằng
trực thăng vào Co-Lũy. Sau những lần đột kích như vậy, TQLC hoàn tất
nhiệm vụ và trở lại tuyến bạn một cách an toàn. Cùng lúc, Sư Đoàn 1
bất thần nhảy vào chiếm lại căn cứ hỏa lực Bastogne, rồi từ đó chiếm
lại luôn căn cứ Checkmate. Đây là hai cao điểm quan trọng bảo vệ
hướng tây nam của Huế. Cuối tháng 5, Sài-G̣n cho tướng Trưởng thêm
Lữ đoàn 1 Dù. Như vậy Vùng I bây giờ có được hai sư đoàn tổng trừ bị
đủ và ba Sư đoàn Bộ binh thiếu. T́nh h́nh cuối tháng 5 ở Vùng I sáng
sủa hơn hai tháng trước. Ngày 28 tháng 5, trước cửa Ngọ Môn Huế,
tướng Trưởng chứng kiến người bạn cùng khoá, Đại tá TQLC Bùi Thế
Lân, được Tổng thống Thiệu gắn cho ngôi sao Chuẩn tướng trên vai. Để
đáp lại sự khen thưởng đó, tướng Lân thề sẽ lấy lại Quảng-Trị.
Cuối tháng 6, khi thấy ḿnh có đủ quân và khả năng để lấy lại
Quảng-Trị. Ông soạn thảo một kế hoạch và tŕnh về Sài-G̣n; cùng lúc
ông cho MACV một bản sao của kế hoạch hành quân. Vài ngày sau, trước
khi Sài-G̣n trả lời, MACV đă trả lời, nói với ông là chưa đến lúc.
MACV đề nghị ông tiếp tục đột kích và chờ một thời gian nữa. Thất
vọng v́ kế hoạch không được chấp nhận, tướng Trưởng bay về Sài-G̣n
đích thân tường tŕnh kế hoạch cho Tổng thống Thiệu. Theo những ǵ
tướng Trưởng viết lại trong tác phẩm The Easter Offensive of 1972,
sau khi nghe kế hoạch của ông, Tổng thống Thiệu -- cũng có thái độ
như MACV – ra lệnh cho ông chờ thêm một thời gian nữa. Trong lúc này
chỉ nên tấn công phá rối và đột kích như đang làm. Bực tức trong sự
yên lặng, tướng Trưởng gom bản đồ lại và bay trở về Bộ Tư Lệnh. Sau
một đêm mất ngủ, sáng sớm hôm sau ông gọi điện thoại cho Trung tướng
Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống Thiệu. Ông
nói: “Tôi sẽ không đệ tŕnh thêm một kế hoạch nào nữa. Nếu hoï muốn
tôi thi hành ra sao th́ nên đưa cho tôi một bản kế hoạch bằng tiếng
Việt, và tôi sẽ thi hành”. Những chữ nghiêng trong câu trích dẫn là
do người viết đánh dấu. Người viết muốn nhấn mạnh những chữ đó, v́
đây là một câu nói bí mật, khó hiểu. Phải chăng người Mỹ đă làm áp
lực với Tổng thống Thiệu và không cho tướng Trưởng đánh trong thời
gian đó, hay đánh theo ư của QLVNCH? Qua những tài liệu của MACV
được giải mật sau này, trong khoảng thời gian từ 1 đến 24 tháng 6,
t́nh h́nh Vùng I và tên của tướng Trưởng được nhắc đến nhiều lần.
Những tài liệu mật cho thấy MACV không nói ǵ đến kế hoạch phản công
chiếm lại Quảng-Trị, nhưng có vài đoạn chúng ta đọc thấy MACV và
chính tướng Abrams lo ngại Quân Đoàn I không đủ quân để thực hiện
một kế hoạch đầy tham vọng như vậy. Trong tập hồ sơ giải mật do sử
gia Sorley soạn thảo-- và tướng Trưởng cũng ghi những chi tiết tương
tự trong tác phẩm của ông -- đến giữa tháng 6-1972, Quân Đoàn I chỉ
có hai Sư đoàn TQLC và Nhảy Dù là đủ cấp số và khả năng tác chiến.
Các đơn vị cơ hữu c̣n lại của Quân Đoàn – ba sư đoàn bộ binh 1, 2,
3; Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ, và Liên Đoàn 1 BĐQ – chỉ c̣n một-phần-ba cấp
số và khả năng tác chiến nguyên thủy. Sư đoàn 3 chỉ c̣n hai tiểu
đoàn tác chiến được; bốn tiểu đoàn th́ đang được tái trang bị và bổ
sung. Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ mất hơn 200 xe tăng và thiết vận xa; 10
tiểu đoàn pháo binh cần phải được trang bị lại 100%. Trong một buổi
họp ở MACV ngày 18 tháng 6 (hai ngày sau khi tướng Trưởng đề nghị kế
họach tái chiếm Quảng Trị), một sĩ quan sau khi tường tŕnh về t́nh
h́nh các đơn vị ở Vùng I, nói tướng Trưởng cần phải có hơn hai sư
đoàn Nhảy Dù và TQLC nếu muốn tái chiếm Quảng-Trị; ông không biết số
quân cần thêm đến từ đâu, nhưng phải có nếu tướng Trưởng muốn thực
hiện kế hoạch hành quân. Cũng trong buổi họp này, sĩ quan thuyết
tŕnh nói đến vấn đề tiếp liệu đạn đại bác cho Vùng I. Đại bác 105
ly được giới hạn lại 20 quả cho một khẩu/một ngày; trong trường hợp
cần thiết 40/ngày. Nếu bắt đầu chiến dịch tái chiếm Quảng Trị, pháo
binh có thể xài 120 viên, và có thể 180 viên/ khẩu/ một ngày. …
Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có khó khăn trong việc tiếp tế. Về tướng
Abrams, chúng ta đọc được sự lo ngại của ông về hỏa lực pḥng không
của địch, nhất là loại hỏa tiễn địa không SA-7. MACV cho biết địch
bắn 14 quả SA-7 và hủy diệt 6 phi cơ. Tướng Abrams nói ông nhấn mạnh
với tướng Trưởng về sự nguy hiểm của loại hỏa tiễn địa không mới, v́
tướng Trưởng sẽ dùng nhiều trực thăng vận cho cuộc đổ bộ tái chiếm.
(Sự lo sợ của tướng Abrams không phải không có lư. V́ chỉ một tháng
sau, trong cuộc đổ bộ xuống Triệu Phong nằm trong khuôn khổ cuộc
hành quân chiếm lại Quảng-Trị, hai chiếc trực thăng CH-53 chở quân
tiểu đoàn 1 TQLC của trung tá Nguyễn Đăng Ḥa bị hỏa lực pḥng không
địch bắn rơi. Một trong hai chiếc bị SA-7 bắn nổ tung trên trời.
Thiệt hại quân là hơn 100 tử thương từ hai chiếc.) Đó là tất cả
những ǵ chúng ta biết về MACV và tướng Trưởng vis-a-vis cuộc hành
quân tái chiếm Quảng-Trị. Dĩ nhiên đó là những ǵ đă được giải mật;
những ǵ chưa được giải mật chúng ta chưa biết được.
Chín giờ sáng hôm sau tổng thống Thiệu gọi điện thoại và yêu cầu
tướng Trưởng trở lại tŕnh bày lại kế hoạch một lần nữa. Lần này
Tổng thống Thiệu chấp nhận kế hoạch hành quân tái chiếm Quảng-Trị
của tướng Trưởng. Hành quân "Tái Chiếm Quảng-Trị" bắt đầu ngày 28
tháng 6, 1972.
Theo tướng Trưởng, kế hoạch tái chiếm Quảng Trị rất “đơn giản:” từ
ngày 10 đến ngày 18, trong khi hai sư đoàn 2 và 3 bộ binh ở lại lo
bảo vệ và pḥng thủ, sư đoàn 1 tấn công về hướng tây, Nhảy Dù và
TQLC đánh nhích qua sông My-Chánh vài cây số thăm ḍ khả năng phản
cự của địch. Từ 19 đến 27 tháng 6, với sự giúp đở của không và hải
vận Mỹ, hai sư đoàn tổng trừ bị làm bộ nhảy vào Cam-Lộ và Cửa-Việt.
Và hai ngày trước khi thật sự tiến quân, hỏa lực từ Không và Hải
Quân và B-52 sẽ dọn băi và san bằng những điểm kháng cự khả nghi.
Ngày 28, Nhảy Dù đánh bên trái, mục tiêu là La-Vang; TQLC đánh bên
phải, mục tiêu là Triệu-Phong. Quốc lộ 1 là trục làm chuẩn của hướng
tiến quân. Nhảy Dù là lực lượng có trách nhiệm chiếm thành Quảng
Trị. Những ngày đầu của cuộc hành quân, Dù và TQLC đánh chậm nhưng
đi được. Trừ một vài trận đụng độ mạnh cấp trung đoàn với địch ở
những lớp pḥng thủ ṿng ngoài… địch rút dần theo đà tiến của chúng
ta. Nhưng càng đi gần về bờ sông Thạch-Hăn, sức chống cự của địch
càng mănh liệt hơn. Đầu tháng 7, khi quân Nhảy Dù đến ngoại ô thành
phố Quảng-Trị, cộng quân từ chối rút: Cổ thành Quảng-Trị là cứ điểm
kháng cự cuối cùng -- đến người cuối cùng; viên đạn cuối cùng -- của
cộng quân. Chẳng những địch quyết tâm tử thủ, họ c̣n viện quân thêm
từ ngoài vào để củng cố thêm hàng pḥng thủ. Để chận đường tiếp
liệu, tiếp quân của địch, tướng Trưởng ra lệnh cho một tiểu đoàn
TQLC trực thăng vận vào một địa điểm ở hướng đông bắc của thành phố
để ngăn chận hướng tiếp tế của địch … nhưng TQLC bị bộ binh và thiết
giáp của địch chận đứng ngay nơi họ đổ bộ. Nhưng sau khi chỉnh đốn,
lính tiểu đoàn 1 của Nguyễn Đăng Ḥa chẳng những bám được địa điểm
đổ quân, họ c̣n gom địch ngược về hướng tây (về hướng Cổ thành)ï.
Đến ngày 14, TQLC thành công cắt được đường liên lạc tiếp tế 560 của
địch. Hơn 50 ngàn quân của địch ở Quảng Trị bây giờ chờ gạo từng
ngày.
Tướng Trưởng và đại úy Thomas Throckmorton. H́nh chụp trước trận Hắc
Dịch, tháng 2-64
Tháng 8-64, cùng với đại úy Arvid E. West, vừa nhảy dù xuống mật
khu Thất Sơn, Châu Đốc.
Tháng 5-67, Chuẩn tướng Trưởng, thiếu tướng Hoàng Xuân Lăm, Vùng I.
Sau lưng tướng Lăm là trung tướng Lewis W, Walt, tư lệnh TQLC Hoa
Kỳ, Việt Nam. Sau lưng tướng Walt là thiếu tướng Bruno A. Hochmuth,
tư lệnh sư đoàn 3, TQLC. Bốn tháng sau, Hochmuth chết v́ tai nạn
trực thăng.
Cuối tháng 7, các cuộc tấn công của Nhảy Dù hết hơi: Cách bức tường
Cổ Thành Quảng Trị chừng 200 mét, Lữ đoàn 2 của Đại tá Trần Quốc
Lịch "hết xăng". Tướng Trưởng thông cảm cho lực lượng Nhảy Dù: Những
trận đánh đẫm máu ở Vơ định, Tân Cảnh, ở quân đoàn II đă làm lữ đoàn
2 bị móp; hơn là bị móp. Cộng thêm vào đó là sự cương quyết tử thủ
của cộng quân. Không cần phải nghe Sài G̣n nhắc, tướng Trưởng biết
Cổ Thành bây giờ là một mục tiêu chính trị; một biểu tượng chính trị
cho hai phía VNCH và cộng sản Bắc Việt ở Paris (lúc này cộng sản đă
trở lại bàn hội nghị), ở trên đầu môi chót lưỡi của mọi người dân
hai phía. Trong tác phẩm của ông, tướng Trưởng nói ông không c̣n
chọn lựa nào khác: Đánh không vào được, hay bao vây chung quanh, hay
đi ṿng qua Cổ Thành chiếm các mục tiêu khác, rồi sau đó trở lại
chiếm Cổ Thành trong một thời gian khác, cũng không được; cũng bị
giải thích là thua. Chỉ có Cổ Thành nằm trong tay VNCH th́ mới gọi
là thắng.
Ngày 27 tháng 7-72, tướng Trưởng thay Nhảy Dù bằng TQLC. “Mục tiêu
vẫn như cũ; chỉ thay đổi vùng trách nhiệm”, tướng Trưởng viết. Nhận
đuợc lệnh, Thiếu tướng Bùi Thế Lân dùng hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC
quyết tâm đánh chiếm Cổ Thành. Tám tiểu đoàn tác chiến và một tiểu
đoàn pháo binh TQLC bỏ ra hơn 50 ngày để hoàn tất nhiệm vụ. Theo lời
kể của đại tá Ngô Văn Định, lữ đoàn trưởng 258, đến ngày 16 tháng 9,
khi quốc kỳ VNCH tung bay trên kỳ đài Cổ Thành, TQLC đă mất trên
3500 tử thương, và hàng ngàn quân nhân khác bị thương. Với sự thiệt
hại đó, câu nói “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô” nói lên thật
nhiều ư nghĩa.
Cuối năm 1972, cuộc chiến Việt-Nam đă đến thế cờ tàn trên ván cờ
chính trị quốc tế: hơn bốn tháng sau, ngày 27 tháng 1-1973, VNCH
không c̣n chọn lựa nào khác hơn là kư vào hiệp định ngưng bắn; tự kư
vào một bản án tử h́nh cho chính ḿnh. Tuyến đầu Vùng I của tướng
Trưởng bị áp lực thường xuyên từ mùa thu năm 1974. Không c̣n lo sợ
không lực của Hoa-Kỳ, cộng sản rănh tay kiến tạo hệ thống tiếp liệu
của họ: đường “ṃn” Hồ Chí Minh bây giờ là một xa lộ với những quán
ăn như “Quán ăên Trường Sơn”, Phi trường Khe-Sanh trở thành một căn
cứ hỏa tiển SAM của địch. Trực thăng Bắc Việt có thể đáp ở phi
trường Vĩnh-Linh, bên kia bờ sông Bến-Hải, để đưa các cán bộ cao cấp
của họ đi thẳng vào thăm các binh trạm của binh đoàn Trường-Sơn.
Tháng 7-1974, Sư đoàn 304 đánh chiếm Nông-Sơn, Thường-Đức. Rất đau
ḷng, rất lo lắng, nhưng tướng Trưởng phải “mượn” hơn một lữ đoàn
Nhảy Dù để giải tỏa áp lực của địch từ cao điểm 1062 đang đè xuống
Đà-Nẵng. Dĩ nhiên Nhảy Dù giải tỏa được cao điểm 1062. Nhưng phải
tốn 500 quân chết và gần 2000 quân bị thương -- trận đánh lớn nhất
từ sau ngày ngưng bắn. Vùng I, trong những ngày tháng đó, chỉ ổn
định được với sự hiện diện của hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và
TQLC.
Phước-Long mất vào đầu năm 1975; Ban-Mê-Thuột mất, và Pleiku, Kontum
bỏ ngỏ để di tản vào ngày 16 tháng 3-75. Vùng I và tướng Trưởng chờ
một quyết định tối hậu từ Sài-G̣n: Tử thủ hay rút quân về những cứ
điểm để pḥng ngự.
Ngày 13 tháng 3-75, Sài G̣n gọi tướng Trưởng về để duyệt xét lại các
kế hoạch pḥng ngự Vùng I. Trong buổi họp này -- và cho đến ngày
VNCH bị thất thủ -- ai nói ǵ, quân lệnh ra sao, nhiệm vụ của tướng
Trưởng là ǵ … vẫn c̣n nằm trong ṿng bí mật. Chúng ta biết một chút
nội dung … biết một cách gián tiếp, nhưng không ai trong cuộc trực
tiếp nói rơ chuyện ǵ xảy ra. Chúng ta biết ngay trong buổi họp ngày
13 tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Trưởng phải giữ Vùng I với số
quân cơ hữu của Quân đoàn và Sư đoàn TQLC. Cũng trong buổi họp này,
tướng Trưởng biết quân đoàn I phải “trả” Sư đoàn Nhảy Dù lại cho Bộ
Tổng-Tham-Mưu, nhưng ông xin Tổng thống Thiệu cho ông giữ lại Sư
đoàn TQLC để dân quân có được tinh thần. Trước mặt ông, Tổng thống
Thiệu cho ông tùy nghi xử dụng TQLC, chỉ trả Sư đoàn Dù lại mà thôi.
Nhưng sau buổi họp, trong lúc nói chuyện riêng giữa ông và Thủ tướng
Khiêm, Thủ tướng Khiêm nói hé ra là Sài-G̣n có thể lấy TQLC khỏi
Vùng I. Ngày 14, Tổng thống Thiệu ra Nha-Trang ra lệnh cho thiếu
tướng Phạm Văn Phú di tản tất cả quân c̣n lại ở Kontum và Pleiku về
Tuy-Ḥa/ Nha-Trang, để tái trang bị và bổ sung rồi từ đó… đánh ngược
lên chiếm lại Ban-Mê-Thuột và Vùng II! Trở lại Quân đoàn I ngày 14,
tướng Trưởng thông báo quyết định của Sài-G̣n cho Trung tướng Tư
lệnh phó Lâm Quang Thi. Ông nói Quân đoàn sẽ được giữ lại 2 trong số
3 Lữ đoàn của TQLC. Hai Lữ đoàn TQLC sẽ về thay Nhảy Dù ở Đà Nẵng,
v́ Lữ đoàn 2 Dù có thể được trưng dụng trong kế hoạch chiếm lại
Ban-Mê-Thuột. Ngày 18 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm bay ra Đà-Nẵng họp
với tướng Trưởng (theo lời yêu cầu của tướng Trưởng) để giải quyết
vấn đề dân di tản. Trong buổi nói chuyện ngày 13, tướng Trưởng xin
thủ tướng Khiêm giúp ông giải quyết vấn đề dân di tản đang dồn về
thành phố. Theo ông, dân di tản sẽ làm ứ đọng quốc lộ 1, con đường
huyết mạch để chuyển quân trên toàn Vùng I. Ngày 19, ông được yêu
cầu trở về Sài-G̣n thêm một lần nữa để tŕnh bày lại kế hoạch di
tản/ pḥng thủ Vùng I. Trong lần họp này, với t́nh h́nh dân chúng di
tản tấp nập trên quốc lộ1, tướng Trưởng nói rút quân từ Huế về
Đà-Nẵng trong t́nh trạng hỗn loạn đó sẽ khó thực hiện được. Ông đề
nghị cho ông ở lại tử thủ Huế, và Huế, Đà-Nẵng và Chu-Lai sẽ là điểm
kháng cự cuối cùng của Vùng I. Tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn
Viên đồng ư. Tướng Trưởng bay trở lại Quân đoàn I và thông báo cho
trung tướng Lâm Quang Thi quyết định của Tổng thống Thiệu thêm một
lần nữa.
Ngày hôm sau, 20 tháng 3, Tổng thống Thiệu lên đài phát thanh đọc
lời hiệu triệu, ra lệnh dân quân giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng tối đêm
đó, Tổng thống Thiệu đổi ư: ông ra lệnh cho Bộ Tổng Tham Mưu đánh
cho tướng Trưởng một quân lệnh, cho biết Sài-G̣n chỉ c̣n đủ phương
tiện để yểm trợ cho một cứ điểm kháng cự. Trong ba cứ điểm Huế,
Chu-Lai, Đà-Nẵng, tướng Trưởng phải chọn một. Dĩ nhiên, Đà-Nẵng phải
là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng ra lệnh di tản về Đà-Nẵng. Tướng
Lâm Quang Thi, trong tác phẩm The Twenty-Five-Year Century của ông,
có nói quân lệnh thay đổi như vậy, nhất là ở cấp Quân đoàn th́ khó
làm việc, và gây thêm nhiều hoang mang cho người thừa hành. Đại
tướng Frederick Weyand, đang là tư lệnh Lục Quân Hoa-Kỳ, trong tờ
tường tŕnh cho tổng thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt-Nam
cuối tháng 3-75, cũng cho biết trong tuần lễ đó, tướng Trưởng đă
nhận 3 quân lệnh trái ngược nhau từ Tổng thống Thiệu.
Trong hoàn cảnh hỗn lọan của Đà-Nẵng, ngày 25 tướng Trưởng nhận thêm
một tin không vui từ Sài-G̣n: đích thân trung tướng Lê Nguyên Khang
-- đang là tổng thanh tra quân đội -- bay ra Đà-Nẵng đưa cho tướng
Trưởng một quân lệnh yêu cầu ông trả lại Sư đoàn TQLC ngay lập tức.
Tướng Trưởng phản đối. Ông nói Đà-Nẵng không thể nào pḥng thủ được
nếu không có mặt của TQLC. Trong hai ngày 26-27, tướng Trưởng và
tướng Lâm Quang Thi cố gắng san sẻ quân để lấp vào những lổ trống
của ṿng đai pḥng thủ -- càng lúc càng siết chặt chung quanh
Đà-Nẵng. Chín giờ đêm ngày 27 ông gọi cho tướng Viên báo cáo t́nh
h́nh và yêu cầu cho phép ông di tản sư đoàn TQLC và những trung đoàn
c̣n lại của Sư đoàn 1 và 3. Tướng Viên nói đó là quyết định của tổng
thống Thiệu. Tướng Trưởng gọi Dinh Độc Lập, nhưng tổng thống Thiệu
không có mặt; khoảng 10 giờ đêm tổng thống Thiệu gọi lại … sau khi
nghe tướng Trưởng báo cáo t́nh h́nh, ông Thiệu hỏi tướng Trưởng sẽ
giải quyết ra sao. Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự
biến chuyển của t́nh h́nh. Tổng thống Thiệu cúp điện thoại. Vài phút
sau tướng Trưởng ra lệnh di tản khỏi Đa-Nẵng. Nhưng không, đến đó
không c̣n di tản nữa. V́ chữ di tản có chứa đựng một khái niệm về sự
thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Địch đă cắt nát quốc lộ 1 ra
từng đọan và đang dùng pháo binh để hăm dọa các cửa khẩu từ biển đi
vào bờ. Đến giờ phút đó, chữ bỏ có nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di
tản. Đà Nẵng và Vùng I mất hai ngày sau đó. Vài ngày sau, cộng quân
gom tất cả lực lượng của họ đang có mặt ở Vùng I lập ra một binh
đoàn có tên là Binh Đoàn Duyên-Hải. Từ đó họ tiến về Vùng III.
Cuộc đời có nhiều nghịch lư và bi hài kịch. Tướng Ngô Quang Trưởng
sanh ra và lớn lên ở Bến-Tre, một vùng đất được mệnh danh là cái nôi
của cộng sản; một nơi mà trong năm Mậu Thân 1968, một sĩ quan Hoa Kỳ
tuyên bố phải tàn phá hết đểà xây dựng lại, nhưng ông đă xả thân
chống lại những người cộng sản, chủ thuyết Cộng sản, cho đến hết
cuộc đời. Sanh ra ở Bến Tre, nhưng tướng Trưởng lớn lên, yêu, quí
mến, và bảo vệ một vùng đất thật xa cho đến hết cuộc đời: Ông thương
Quảng-Trị và Thừa-Thiên đến độ ông đặt tên người con trai út là Ngô
Trị Thiên.
Tháng 8 năm ngoái, khi được thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chuyển lời,
người viết có dịp nói chuyện với tướng Trưởng. Trong lần nói chuyện
đó, với bản tính thích t́m căn nguyên của lịch sử, người viết mạo
muội hỏi tướng Trưởng về thái độ của người Mỹ trong cuộc chiến "Mùa
Hè Đỏ Lửa" năm 1972; hỏi về nội dung những đối thọai giữa ông và
Tổng thống Thiệu vào tháng 3-1975. … Nhưng tướng Trưởng tránh không
trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói … “cũng không có ǵ để
nói … tất cả đă được nói hết rồi … những ǵ anh em chúng ta làm
trong quá khứ đều có nghĩa”. Câu chuyện tiếp tục được vài phút sau
th́ người viết lại cố gắng "lái" về hai câu hỏi nguyên thủy. Lần này
ông cũng tránh trả lời. Nhưng lần này ông nói cho người viết nghe về
triết lư của một người quan vơ Á-Đông. Đại khái tướng Trưởng muốn
nói đến câu “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại
phu bất khả ngôn trí” (Tướng bại trận th́ không thể nói ḿnh anh
dũng. Bậc trí sĩ đại phu khi đă mất nước th́ không thể nói ḿnh có
mưu lược). Thâm thúy, thật thâm thúy.
Với tất cả sự kính trọng của một hậu sinh đối với trung tướng Ngô
Quang Trưởng, người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi ḍng
tưởng niệm này.
Lời người viết:
Thể văn tưởng niệm và điếu văn, không cho phép người viết xử dụng
lối ghi chép kiểu trích dẫn biên khảo. Nhưng, v́ một vài chi tiết
trong bài viết có thể đưa đến sự tranh luận. V́ khả thể đó, người
viết lược ghi dưới đây những nguồn tài liệu, nhân chứng, đă cung cấp
chi tiết cho bài viết này.
Chi tiết về gia đ́nh của tướng Trưởng đến từ hai anh Nguyễn Tường
Đằng và Nguyễn Tường Giang. Hai anh là em vợ của người quá cố. Thứ
hạng ra trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức Khóa 4, năm 1954, và tên các
người bạn đồng khóa, đến từ hồ sơ nghiên cứu về các sĩ quan VNCH, do
Pḥng Chính Trị ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n soạn thảo vào năm 1974. Bản
lưu trữ nằm trong thư viện Texas Tech University. Chi tiết các trận
đánh Đỗ-Xá, B́nh-Giả, Hắc-Dịch, Thăng-B́nh, đến từ các đại tá Vũ Thế
Quang, Nguyễn Thu Lương và Tôn Thất Soạn. Tường tŕnh lo ngại về khả
năng của cộng sản sau trận B́nh Giả nằm trong: CIA Weekly Report/
OCI No 2654/65 (declassified April-96). Tất cả những lời b́nh phẩm
của các tướng lănh Hoa Kỳ về tướng Trưởng nằm trong sách đă dẫn, và,
Lewis Sorley: A Better War. Về chuyện MACV dùng hồng ngoại tuyến để
ḍ địa điểm đóng quân của Việt Cộng ở B́nh-Giả, nằm trong: The
United States Air Force in Southeast Asia: The Advisory Year to
1965. Chuyện về các cố vấn Nhảy Dù Hoa-Kỳ đến từ: Command Sergeant
Major M. Martin, Angels in Red Hats: Sư Đoàn Nhảy Duø. Sự nghiệïp
của thiếu tá Guy S. Meloy, III, nằm trong Charles Beckwith: Delta
Force. Quan sát của đại tướng Schwarzkopf, trong: H. Norman
Schwarzkopf, It Doesn’t Take a Hero. Quan sát của các sĩ quan cấp
nhỏ đang đánh trận đến tư: Trần Ngọc Toàn, The Binh Gia Front/ Mặt
Trận B́nh Giả, và Phan Nhật Nam, Dấu Binh Lửa. Trong Dấu Binh Lửa,
tác giả Phan Nhật Nam cũng ghi lại trận Hắc Dịch mà ông đă tham dự.
Biến cố chính trị ở miền Trung đến từ Đoàn Thêm: Chuyện Từng Ngày.
Chuyện tướng Trưởng nhảy dù rớt xuống sông Hương đến từ Đại tá Tôn
Thất Soạn. Trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” và những cuộc hành quân liên hệ, đến
từ: Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972. Charles D.
Melson, U.S. Marines in Vietnam1971-1973: The War That Would Not
End. Đại tá Ngô Văn Định: Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị, trích trong
tuyển tập: Hai Mươi Năm Chiến Trận của TQLC Việt Nam (1954-1975).
Con số 50 ngàn quân cộng sản ở mặt trận Quảng Trị đến từ sự tính
toán của người viết. Đồng Sỹ Nguyên (Tư-Lệnh Binh đoàn Trường
Sơn/559) trong: Đường Xuyên Trường Sơn, và, Tổng Cục Hậu Cần, trong:
Lịch Sử Bộ Đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, đều nhắc đến một sự
kiện thiếu gạo trong thời gian họ chiến đấu ở Quảng-Trị. Ở một đoạn
văn cả hai sách đều nói đến "năm trăm (500) tấn gạo chỉ nuôi quân
được hơn một tuần"… Cấp số ẩm thực của quân lính Cộng sản là 3 lon
(750 grams) đến 4 lon (1 ki lô) gạo một ngày. 500 tấn bằng 500.000
kí. Chia cho 10 ngày chúng ta có sức tiêu thụ 50.000 kư một ngày.
Với cấp số 3 lon một ngày, chúng ta có 75 ngàn quân; 4 lon, 50 ngàn
quân. Tướng Trưởng, trong: The Easter Offensive cho biết địch có
khoảng 6 sư đoàn ở Vùng I. Một Sư đoàn Cộng sản có từ 7.500 đến 8500
người. Sáu Sư đoàn cho ta số quân tương tự như nhu cầu ẩm thực hàng
ngày mà sử liệu Cộng sản đă nhắc đến. T́nh h́nh Vùng I và sự thất
thủ đến từ: những đối thoại của người viết và thiếu tướng Nguyễn Duy
Hinh, và, Đại tướng Cao Văn Viên: The Final Collapse/ Những Ngày
Cuối của Việt Nam Cộng Ḥa. Trung Tướng Lâm Quang Thi: The
Twenty-Five-Year Century. Stephen T. Hosmer, et al., The Fall of
South Vietnam: Statemens by Vietnamese Military and Civilian
Leaders. Tờ tường tŕnh của Tư lệnh Lục Quân Frederick Weyand cho
tổng thống Gerald Ford về những quân lệnh trái ngược, nằm trong: The
Weyand Report, hiện lưu trữ tại The Gerald. R. Ford Presidental
Library/ University of Michgan. H́nh của tướng Trưởng và Đại tướng
Westmoreland ở Vùng I nằm trong: The U.S. Marines in Vietnam:1967.
Các h́nh c̣n lại nằm trong: Command Sergeant Major M. Martin, Angels
in Red Hats: Sư Đoàn Nhảy Dù.
nguyenkyphong@yahoo.com
|