[_templates/thtqlcvn-header.htm]

 

 ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
(1921-2008)


Trần Đông Phong

Kể từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, người nắm giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu lâu đời nhất, từ 1965 đến 1975, tưc là gần 10 năm, là Đại Tướng Cao Văn Viên, kế đó là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, gần 8 năm, từ 1955 đến 1963, c̣n những vị khác th́ thời gian họ nắm giữ chức vụ này rất ngắn ngủi, có người chỉ chừng vài năm, có người chỉ chừng vài tháng mà thôi. Tuy nhiên trong số những vị này, Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất đă nắm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng khi quân số của Quân Lực VNCH lên đến trên 1 triệu người cả nam lẫn nữ và vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa, ông đă được Tổng Thống Trần Văn Hương bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Ḥa do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ.

Theo bản tiểu sử chính thức của Việt Tấn Xă (Who’s Who in Vietnam,VNTTX Saigon, 1974) ông Cao Văn Viên sinh tại Vientiane (Vạn Tượng,) thủ đô nước Lào ngày 11 tháng 12 năm 1921. Ông theo học trường trung học của người Pháp ở Vientiane và sau khi tốt nghiệp bằng Diplome (trung học Đệ Nhất cấp), ông đi làm công chức trong ngành Kho Bạc (ngân khố) tại thủ đô nước Lào. Ông không phải là một người t́nh nguyện gia nhập vào quân đội, khi c̣n ở tuổi đôi mươi như những vị sĩ quan khác mà chỉ gia nhập vào quân đội một cách bất đắc dĩ sau khi bị bắt cầm tù. Có nhiều người từng quen biết với Đại Tướng Cao VănViên cho biết rằng ông Cao Văn Viên trở về Việt Nam với ư định tham gia kháng chiến chống Pháp nhưng lại bị quân đội Pháp bắt khi ông trên đường trở về Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 1940. Thấy ông nói tiếng Pháp thông thạo, quân Pháp bắt ông phải đi theo họ để làm thông ngôn (thông dịch viên) cho đến khi người Pháp mở lớp huấn luyện sĩ quan để phục vụ cho Vệ Binh Cộng Ḥa ở Nam Việt (Gardes Républicaines du Sud Vietnam,) ông đă được gửi đi thụ huấn khóa này. Ông tốt nghiệp lớp Huấn Luyện Sĩ Quan tại Cap St Jacques (Vũng Tàu) vào năm 1949, lúc bấy giờ đă gần 30 tuổi, cùng một khóa với các ông Nguyễn Chánh Thi, sau này là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông Nguyễn Hữu Hạnh, sau này là Chuẩn Tướng, được ông Dương Văn Minh bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 th́ mọi người mới biết Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đă theo Cộng sản từ trước.

Theo ông Phạm Văn Liễu th́ Tướng Cao Văn Viên đă từng giữ chức vụ chỉ huy những đơn vị tác chiến từ đầu thập niên 1950 tại Bắc Việt cùng với các sĩ quan sau này nắm giữ những chức vụ lănh đạo trong guồng máy chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng Ḥa như Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, Trung úy Trần Thiện Khiêm, Trung úy Tôn Thất Đính, Trung úy Đặng Văn Quang v.v. Tướng Cao Văn Viên đă từng làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 10 ở Tiểu Khu Hưng Yên, (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng có một thời phục vụ tại tiểu khu này với ông Cao Văn Viên,) tiểu đoàn trưởng Tiểu Đ̣an 56, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù, Tư Lệnh Quân Đoàn III trước khi được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1965.

Ông cũng đă từng giữ chức vụ Tùy Viên Quân Sự tại Ṭa Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa ở Washington trong hai năm rồi sau đó được cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu (CGS) của quân đội Hoa Kỳ tại Fort Leavenworth vào năm 1956-1957. Một trong những người bạn cùng khóa với ông tại Ft Leavenworth là Trung Tướng Harold G. Moore, người đă chỉ huy trận đánh Ia Drang vào năm 1965. Tướng Moore sau này là tác giả cuốn sách “We’re Soldier Once…and Young” và cuốn sách này đă được quay thành phim rất ăn khách với tài tử nổi tiếng Mel Gibson đóng vai tướng Harold Moore, với sự cộng tác của tài tử Đơn Dương ở Việt Nam. Cũng v́ đóng phim này mà Đơn Dương bị chính quyền Cộng sảnViệt Nam gây ra rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có sự can thiệp tích cực của giới nghệ sĩ Hollywood cho nên Đơn Dương sau cùng mới được di dân sang sinh sống ở Hoa Kỳ.

Sau khi trở về nước, Trung Tá Cao Văn Viên được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cử làm Tham Mưu Trưởng Tham Mưu Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống và sau cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960, Trung Tá Cao Văn Viên được cử giữ chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù.

Ngày 3 tháng 3 năm 1964, Đại Tá Cao Văn Viên được vinh thăng Thiếu Tướng sau khi bị thương trong lúc đang chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù hành quân trong vùng biên giới Việt-Miên. Ông là người sĩ quan cấp đại tá sau cùng được thăng lên chức vụ thiếu tướng 2-sao v́ sau đó th́ Thủ Tướng Nguyễn Khánh đă sửa đổi lại quy chế và cấp bậc trong quân đội, cho thiết lập thêm cấp bậc chuẩn tướng 1-sao giống như là Brigadier General trong quân đội Hoa Kỳ.

Sau khi được thăng lên thiếu tướng, Tướng Cao Văn Viên được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng 3 Chiến Thuật ở Biên Ḥa vào năm 1964. Một năm sau đó, vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, ông lại được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Sang năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Tổng Trưởng Quốc Pḥng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng sau khi Hiến Pháp VNCH được ban hành vào ngày 1 tháng 4 năm 1967 th́ ông từ chức Tổng Trưởng Quốc Pḥng, chỉ c̣n giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng cho đến tháng 4 năm 1975.

Tướng Cao Văn Viên là người rất hiếu học. Trong thời gian phục vụ tại Phủ Tổng Thống, ông đă tự học và thi đậu cả hai bằng tú tài I và II, sau đó ông lại c̣n tiếp thục theo đuổi việc học tại trường Đại Học Văn Khoa Sài G̣n và đă lấy được văn bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp.

Sau năm 1975, ông Cao Văn Viên cùng một số sĩ quan Việt Nam, Cam-Bốt và Lào được Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ mời cộng tác để viết lại về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến tranh Đông Dương và hai tác phẩm của ông đă được trung tâm này xuất bản trong bộ sách Indochina Monographs vào thập niên 1980, đó là cuốn “Leadership” xuất bản vào năm 1981 và “The Final Collapse” xuất bản vào năm 1983. Cuốn The Final Collapse đă được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra Việt ngữ dưới tựa đề “Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Ḥa” xuất bản vào năm 2003. Ngoài ra ông đă cùng với cựu Trung Tướng Đồng Văn Khuyên viết cuốn “Reflections on the Vietnam War” được xuất bản vào năm 1980.

Sau ngày di tản sang Hoa Kỳ, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cư ngụ tại tiểu bang Virginia và ông sống một cuộc đời rất thầm lặng, ít liên lạc với bên ngoài cũng như là rất ít xuất hiện trước đám đông, kể cả những buổi họp mặt của các hội đoàn cựu quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa. Bà Cao Văn Viên đă từ trần cách đây ít lâu và v́ t́nh trạng sức khỏe trở nên rất suy yếu, trong những năm gần đây, ông Cao Văn Viên được đưa vào sống trong một nhà an dưỡng cho người cao niên tại niên tại Arlington thuộc vùng ngoại ô thủ đô Washington D.C.

Suưt Bị Phe Đảo Chánh 1-11-1963 Thủ Tiêu

Vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Cao Văn Viên không theo phe đảo chánh và “chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” nhưng có một số sĩ quan khác lại không được may mắn như vậy.

Sáng ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên cũng như tất cả các vị tư lệnh mọi quân binh chủng và giám đốc nha sở tại Sài G̣n đều được lệnh cuả Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VNCH, mời về họp tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Đúng 1 giờ 30 chiều, Trung Tướng Dương Văn Minh, nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng tuyên bố với tất cả sĩ quan hiện diện rằng Quân Đội đă đứng lên làm đảo chánh chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Tướng Minh hỏi từng người ai không theo “cách mạïng.” Đại Tá Cao Văn Viên và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt từ chối không theo và cả hai ông đều bị quân cảnh c̣ng tay rồi nhốt trong một căn pḥng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng bị nhốt chung với hai vị đại tá nói trên c̣n có Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, Chỉ Huy trưởng Thiết Giáp và Đại Tá Trần Văn Trung, Tùy viên Quân sự tại ṭa Đại sứ Việt Nam tại Paris vưà mới về nuớc v.v.

Tối hôm đó, Đại úy Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tùy viên của Dương Văn Minh, mang Đại Tá Lê Quang Tung và em trai cuả ông là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt sang nghiă địa cuả Hội Bắc Việt Tương Tế cạnh Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết. Không ai được biết một cách chính xác người nào đă ra lệnh xử tử hai vị sĩ quan này, nhưng chỉ trong ṿng một ngày 2 tháng 11, viên sĩ quan tùy viên này của Tướng Dương Văn Minh đă giết chết 4 mạng người, nếu kể thêm cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu. Cho đến bây giờ, thân nhân cuả hai ông Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu cũng không thể nào t́m được di hài cuả họ mặc dù đă cố cất công hỏi thăm t́m kiếm từ năm 1963. Người duy nhất biết đích xác nơi chôn vùi hai vị sĩ quan này là Đại úy Nhung, nhưng ông này đă “dùng dây giày tự tử” sau cuộc chỉnh lư ngày 30 tháng 1 năm 1964.
Một vị sĩ quan khác cũng cùng chung số phận với hai vị sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt này, đó là Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân.

Sáng ngày 1 tháng 11, Đại Tá Hồ Tấn Quyền được một sĩ quan Hải Quân cũng là bạn cuả ông là Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực mời đi Thủ Đức để ăn mừng sinh nhật cuả ông Quyền. Sau này có nhiều người thắc mắc tại sao Đại Tá Quyền lại đi Thủ Đức ăn sinh nhật vào buổi sáng ngày 1-11 v́ trên nguyên tắc, ông là tư lệnh một quân chủng th́ đă phải nhận được lệnh về dự phiên họp đặc biệt tại Bộ Tổng Tham Mưu vào trưa hôm đó, tại sao ông lại đi Thủ Đức v́ một việc riêng cuả ông?

Một nguồn tin từ trước năm 1975 nói rằng theo cuộc điều tra của An Ninh Hải Quân sau này th́ người tài xế lái chiếc xe traction cuả Đại Tá Quyền kể lại rằng dường như Đại Tá Quyền có vẻ không muốn đi nhưng hai người sĩ quan kia đi hai bên có vẻ như là ông bị kèm ở giưă. Trên xe, Đại Tá Quyền ngồi ở giưă, Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực ngồi bên phải và Đại Úy Nguyễn Kim H.G. ngồi bên trái ở băng sau. Điều này cho thấy là ông Quyền bị áp lực cuả hai ông sĩ quan thuộc cấp v́ theo lễ nghi quân cách th́ vị tư lệnh bao giờ cũng phải ngồi ở vị trí bên phải chứ không ngồi ở giưă. Khi xe chạy qua vườn cao su Thủ Đức (lúc bấy giờ Xa lộ Biên Hoà đang được xây cất), người tài xế nghe có tiếng căi cọ ở phía sau, rồi có tiếng súng nổ. Đại Tá Quyền là người khá to lớn, ông lại có vơ nên cả hai vị sĩ quan kia phải khó khăn lắm mới hạ nỗi ông Quyền. Người tài xế được lệnh ngừng xe lại, hai người kia đẩy xác Đại Tá Quyền xuống rừng cao su rồi sau đó xe lại chạy về Bộ Tổng Tham Mưu. Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị đâm chết bằng nhiều lát dao, không biết rơ ai là thủ phạm, tuy nhiên cả hai ông sĩ quan ngồi cùng ông Quyền ở sau chiếc xe traction đó sau này đều được thăng chức và không hề bị truy tố về tội sát nhân. Trung Tá Lực đă qua đời tại Pháp cách đây ít lâu, c̣n ông Nguyễn Kim H. G, th́ vẫn c̣n sống tại Hoa Kỳ. Đại Tá Hồ Tấn Quyền nhất quyết không chịu theo phe đảo chánh do đó mà ông đă bị hạ sát.

Người viết được may mắn có quen biết với một vị sĩ quan hải quân, người này là bạn của Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực. Trong một cuộc gặp gỡ gần đây tại Westminster, California, vị cựu đại tá Hải Quân này có kể cho người viết nghe những chi tiết về việc Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền bị giết vào năm 1963 theo lời tường thuật của chính Trung Tá Lực (mới được thăng chức sau ngày đảo chánh) và những chi tiết này hoàn toàn không giống như nguồi tin vưà nói ở trên.

Trung Tá Lực cho biết rằng ông đă được “móc nối” về vụ đảo chánh và được lệnh phải t́m cách cô lập hoặc đưa Đại Tá Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 v́ phe đảo chánh không muốn các đơn vị hải quân chống lại đảo chánh.

Sáng ngày hôm đó là ngày lễ Toussaint (Các Thánh) cho nên công chức và quân nhân được nghỉ nưả ngày, Đại Tá Quyền cùng Thiếu Tá Lực đi đánh quần vợt. Sau đó, Thiếu Tá Lực mời Đại Tá Quyền đi lên Thủ Đức nhậu để mừng sinh nhật của ông Quyền. Ông Quyền không muốn đi v́ ông nói rằng chiều hôm đó ông phải vào tŕnh diện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông Quyền vẫn không chịu đi nhưng v́ ông Lực năn nỉ hết lời cho nên cuối cùng th́ ông nhượng bộ nhưng đ̣i ông Lực phải về sớm. Ông Lực thường lái xe riêng, một chiếc xe hiệu Vauxhall của Anh, tuy nhiên lúc đó ông bảo người tài xế của Đại tá Quyền sang lái chiếc xe của ông và chính ông Lực th́ lái chiếc xe “Traction” của ông Quyền. Đại Tá Quyền ngồi cạnh Thiếu Tá Lực ở băng trước, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ngồi đằng sau. Khi xe chạy lên tới vườn cao su Thủ Đức, Thiếu Tá Lực mới nói cho Đại tá Quyền rằng các tướng lănh đang đảo chánh tại Sài G̣n và yêu cầu ông Quyền theo phe đảo chánh. Ông Quyền nghe nói như vậy th́ giận lắm, ông từ chối không chịu theo đảo chánh, mặt ông đỏ rần lên và ra lệnh cho Thiếu Tá Lực phải quay xe trở lại Sài G̣n. Ông Lực không nghe lời, cứ lái xe chạy thẳng và lúc đó th́ Đại Tá Quyền rút một con dao găm trong người đâm vào tay phải của ông Lực mấy nhát. Ông Lực phải cố gắng lắm mới giữ được chiếc xe khỏi bị lật và trong lúc đó th́ Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ở đằng sau rút khẩu súng lục Colt-12 bắn một phát vào sau gáy ông Quyền. Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết ngay trên chiếc xe traction của ông. Sau đó hai ông Lực và Hương Giang ngừng xe trong rừng cao su, khiêng xác ông Quyền dấu vào sau cốp xe rồi lái thẳng về Bộ Tổng Tham Mưu tŕnh diện các tướng lănh.

Vị sĩ quan hải quân này cho người viết biết rằng ông gặp Trung Tá Nguyễn Văn Lực chỉ mấy ngày sau cuộc đảo chánh và thấy tay phải của ông Lực vẫn c̣n bị băng bó. Ông c̣n cho biết thêm rằng Trung Tá Lực có nói với ông nguyên văn như sau: “cả hai thằng chỉ được có ba trăm ngàn chứ mấy!” Sau đó ông Lực được thăng lên trung tá và được Hội Đồng Cách Mạng cử đi làm Tùy Viên Quân Lực tại Đại Hàn. Sang năm 1964, sau cuộc chỉnh lư th́ ông Lực được lệnh phải về Sài G̣n tŕnh diện. Khi ông Lực về đến Sài G̣n th́ có người mách ông ta rằng có thể ông sẽ bị bắt, do đó ông đă đào ngũ và chạy sang Nam Vang rồi sang sinh sống ở Pháp. Cố Hải Quân Đại Tá Phạm Gia Luật có thời làm Tùy viên Hải Quân tại London có cho người viết biết rằng hồi đó ông vẫn thường sang Pháp chơi và vẫn đến thăm bạn cũ là cựu Trung Tá Nguyễn Văn Lực đang làm chủ một tiệm ăn nhỏ ở Paris. Ông Nguyễn Văn Lực đă qua đời tại Pháp.

Vị cựu đại tá hải quân này cũng cho biết Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang sau đó được thuyên chuyển về Thủy Quân Lục Chiến và có người kể lại rằng trong nhà ông ta có chưng h́nh của cố Đại tá Hồ Tấn Quyền trên bàn thờ v́ ông bị hồn ma của Đại Tá Quyền về “phá” hoài. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Hương Giang hiện vẫn c̣n sống tại Hoa Kỳ. Người viết hỏi vị đại tá này có nên viết tắt tên của Đại úy H.G. hay không th́ ông trả lời rằng không cần thiết v́ trong Hải Quân ai cũng đều biết chuyện này.

Cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ lúc đó là Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống chống lại phe đảo chánh có nói về hai viên sĩ quan Hải Quân này như sau:
“…Sau đó, Đại đội 3 đóng ở Sở Thú báo cáo bắt được một thiếu tá Hải Quân tên là Lực và một đại úy tên là Giang, họ tưởng quân của Lữ Đoàn là quân của phe đảo chánh nên nhờ báo cáo lên Tổng Tham Mưu là họ đă giết được Đại Tá Quyền, Tư Lệnh Hải Quân rồi. Đại đội 3 xin tôi quyết định về hai ông này. Tôi ra lệnh phải giam giữ hai ông cẩn thận để sau này Tổng Thống quyết định….
“Sau cách mạng, Thiếu Tá Lực được lên trung tá. Đại úy Giang, người cùng Thiếu tá Lực giết Đại Tá Quyền, sau cũng lên trung tá và anh cũng sang Mỹ tỵ nạn, cùng ở San Diego như tôi. Chúng tôi cũng đôi khi gặp nhau…”

Trung Tướng Trần Văn Đôn cũng có nhắc đến chuyên Đại Tá Hồ tấn Quyền bị giết: “tại câu lạc bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Dương Văn Minh cho tôi biết tin Trung Tướng đă ra lệnh quân sĩ về thủ đô sớm hơn trù liệu v́ Đại Tá Hồ Tấn Quyền đă bị giết sợ e đổ bể… Từ đó tôi ra lệnh không được cho bất cứ ai ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham Mưu v́ tôi sợ bị tiết lộ…”

Trong ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên may mắn chỉ bị c̣ng tay nhưng không bị giết.
Sự may mắn đó có lẽ là nhờ ở sự can thiệp của một người bạn cũ thời cùng phục vụ tại Tiểu khu Hưng Yên ở Bắc Việt, lúc đó đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu: Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, chánh văn pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, một trong những người đă được chứng kiến từ đầu đến cuối mọi diễn tiến của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 v́ khi đó văn pḥng của tướng Trần Thiện Khiêm là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, có nói đến việc Đại Tá Cao Văn Viên bị bắt giữ như sau:
“Một lúc sau đó, tôi vào tŕnh Thiếu Tướng Khiêm:
- Thưa Thiếu Tướng, tôi thấy giữ Đại Tá Viên (Đại Tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù), dưới pḥng họp không tiện lắm. Xin Thiếu Tướng cho phép đưa Đại Tá Viên lên ngồi ở văn pḥng tôi và tôi chịu trách nhiệm.
- Được rồi, chú đưa Đại Tá Viên lên pḥng chú đi.”
Như vậy có lẽ nhờ được ngồi trong văn pḥng của Đại úy Phạm Bá Hoa ở ngay bên ngoài văn pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và cũng nhờ t́nh bạn giữa Đại Tá Cao Văn Viên với Tướng Khiêm mà những tướng khác trong phe đảo chánh đă không giết ông như trường hợp Đại tá Lê Quang Tung. Về sau, khi Tướng Cao Văn Viên trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng, ông Phạm Bá Hoa được Tướng Viên giữ lại làm Chánh Văn pḥng của ông cho đến khi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ.

Một nhân vật nữa cũng bị c̣ng tay nhưng may mắn không bị giết là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống. Theo cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng của ông cho biết như sau: “Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống kể với tôi rằng khi ông đi họp ở Tổng Tham Mưu vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 th́ bị Thiếu Tá Thiệt, Quân Cảnh, c̣ng tay với nhiều sĩ quan cao cấp mà phía đảo chánh gọi là “người tin cậy của Tổng Thống Diệm.” Ông cằn nhằn Thiếu tá Thiệt: “Sao kỳ vậy anh Thiệt? Tôi là sĩ quan cao cấp được Tổng Tham Mưu mời họp mà anh lại c̣ng tôi?” Thiếu tá Thiệt trả lời: “Thưa Trung Tá, tôi không dám, nhưng đây là lệnh của Đại Tá Quan.” Thật vậy, sau này tôi mới biết địa vị quan trọng của Đại Tá Nguyễn Văn Quan từ lúc tổ chức đảo chánh, rồi ông được coi như là phụ tá của Trung Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu đảo chánh sau trở thành quốc trưởng.”

Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi sau này có cho người viết biết rằng vào ngày hôm sau, 2 tháng 11 năm 1963, mấy vị sĩ quan bị bắt đước gặp Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tá Khôi đă nói với Tướng Minh rằng các ông chỉ là những sĩ quan trong quân đội, mỗi người đảm trách một chức vu nào đó để thi hành nhiệm vụ mà Bộ Quốc Pḥng giao phó chứ không có quyền chọn lựa ǵ cả. Ông hỏi Tướng Minh tại sao mà những sĩ quan phục vụ cho quân đội chứ không phải là Việt Cộng mà lại bị quân đội dưới quyền lănh đạo của ông Minh c̣ng tay? Ông Khôi cho biết thêm rằng sau đó ông Dương Văn Minh ra lệnh mở c̣ng cho các sĩ quan đang bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Huỳnh Ngọc Hiền, Đại tá Trần Văn Trung, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện v.v. Tuy nhiên theo Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ th́ sau ngày đảo chánh, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi lại bị nhóm tướng lănh “cách mạng” giam ở khám Chí Ḥa (173).

Trong một cuộc tiếp xúc dành cho người viết tại tư gia của ông tại thành phố Garden Grove, California, cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi cho biết rằng ông được Đại Úy Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm gọi điện thoại mời lên họp tại Bộ TTM vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 và sau khi ăn trưa tại câu lạc bộ sĩ quan th́ tất cả các sĩ quan được mời sang Pḥng Họp tại Ṭa Nhà Chánh tức là Văn Pḥng của Tổng Tham Mưu Trưởng. Vào khoảng hai ba giờ chiều ǵ đó th́ Thiếu tá Thiệt đến gặp nhửng sĩ quan mà ông có tên trong một danh sách và c̣ng tay họ lại. Đại Tá Khôi cho biết ông Thiệt căn cứ vào danh sách và có người th́ bị c̣ng riêng, có người th́ bị c̣ng chung với người khác. Đại tá Khôi phản đối và đ̣i được nói chuyên với Trung Tướng Dương Văn Minh. Đến chiều tối th́ Tướng Minh vào pḥng và khi thấy Đại Tá Khôi đang bị c̣ng th́ ông ra lệnh cho Thiếu tá Thiệt mở c̣ng cho ông.

Đại Tá Khôi hỏi Tướng Minh là ông ta có nói chuyện với Tổng Thống Diệm hay không th́ ông Minh nói rằng ông Diệm có nói chuyện với Thiếu Tướng Khiêm. Ông Minh nói thêm rằng “Tôi không có mang ơn nghĩa ǵ với gia đ́nh họ Ngô và tôi sẵn ḷng để cho họ ra đi. Nhưng mà họ c̣n ngoan cố, trốn ra khỏi Dinh Gia Long rồi t́m cách liên lạc với chỗ này chỗ nọ…Tôi sợ rằng tôi không c̣n có thể bảo đảm an ninh cho họ được nữa…”

Ông Khôi nói rằng tối hôm đó những sĩ quan bị bắt được ăn cơm mang cơm từ Câu Lạc bộ Sĩ quan sang rồi khoảng chừng lối 11 giờ th́ ông Khôi cùng một số sĩ quan được đưa sang pḥng khác và anh em Đại Tá Lê Quang Tung th́ lại được đưa sang một pḥng khác nữa. Đó là lần cuối cùng ông nh́n thấy hai vị sĩ quan này…Ngày hôm sau ông bị các tướng lănh cách mạng nhốt vào khám Chí Ḥa.

Cựu Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi có tiết lộ cho người viết một chi tiết quan trọng có liên quan đến kế hoạch chống đảo chánh của ông Ngô Đ́nh Nhu. Ông Khôi nói với người viết rằng khoảng một vài hôm trước ngày cuộc đảo chánh diễn ra, ông Ngô Đ́nh Nhu đă đưa ra một kế hoạch nhằm bắt giữ một số tướng lănh và sĩ quan bị nghi ngờ là có thể đang âm mưu đảo chánh. Theo kế hoạch này th́ nếu có lệnh của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, đơn vị được giao phó cho việc đi bắt này sẽ là Lực Lượng Đặc Biệt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Quang Tung, một vị sĩ quan được xem như là người trung thành nhất với chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ông Khôi nói rằng em trai của ông là Đại úy Nguyễn Ngọc Hạp, lúc bấy giờ là sĩ quan tùy viên của ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu đă kể lại với ông rằng vào khoảng ngày 31 tháng 10 năm 1963, ông Nhu đă tŕnh với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu thi hành kế hoạch bắt giữ các tướng lănh nhưng Tổng Thống Diệm đă bác bỏ sự yêu cầu này v́ ông cho rằng ông là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội th́ không thể nào ra lệnh bắt giữ các sĩ quan khi mà họ chưa có làm điều ǵ phạm pháp.

Tổng Thống Diệm Có Ư Định “Ẩn Trốn” Trong Nhà Đại Tá Viên?

Khi xảy ra vụ đảo chánh 1-11-63, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng c̣n ở Hoa Kỳ, tuy nhiên trong cuốn “The Palace File,” ông có đề cập đến chuyện Đại Tá Cao Văn Viên hồi đó, v́ theo ông th́ cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă kể lại cho ông nghe khi ông phỏng vấn ông Thiệu ở Luân Đôn hồi năm 1976.

TS Hưng viết rằng:
“Theo Tướng Tôn Thất Đính th́ khi Đại Tá Cao Văn Viên từ chối không ủng hộ “cách mạng,” Tướng Dương Văn Minh ra lệnh thủ tiêu ông Viên, nhưng Tướng Đính đă cứu mạng ông Viên và nói với ông Minh rằng Đại Tá Viên sẽ không chống lại cuộc đảo chánh, nhờ vậy mà ông Viên chỉ bị nhốt tại Bộ Tổng Tham Mưu chứ không bị thủ tiêu. Ông Viên đă đồng ư để cho hai ông Diệm và Nhu đến ẩn trốn trong nhà ông, tuy nhiên, bà Cao Văn Viên, người vẫn thường đánh mạt chược với tướng Tôn Thất Đính, đă tiết lộ rằng chiều ngày 1-11-63, khi trong Dinh Gia Long gọi điện thoại cho bà th́ bà cho họ biết rằng ông Viên đă bị bắt và nhà cuả bà đang bị canh chừng. Do đó, TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu đă đến nhà Mă Tuyên trong Chợ Lớn để tá túc.”

Người viết có phối kiểm với Đại Tá Trần Văn Thăng, cựu Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cựu Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc gia về chuyện Đại Tá Cao Văn Viên bị nhốt ở Tổng Tham Mưu vào ngày đảo chánh 1-11-1963, Đại Tá Thăng lúc đó là Chánh Sở 3 An ninh Quân Đội dưới quyền của Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn III. Ông Thăng cho biết rằng người đă can thiệp với Trung Tướng Dương Văn Minh không nên thủ tiêu Đại Tá Cao Văn Viên hồi đảo chánh năm 1963 không phải là Trung Tướng Tôn Thất Đính v́ lúc bấy giờ Tướng Đính đang chỉ huy và điều động các đơn vị đảo chánh tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở đại lộ Lê Văn Duyệt. Người đă can thiệp cho Đại tá Cao Văn Viên chính là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, lúc bấy giờ đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/ Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và ngày hôm đó ông đang ngồi ở Bộ Tổng Tham Mưu bên cạnh Trung Tướng Dương Văn Minh. Đại Tá Thăng nói thêm rằng: “Hơn nưă, Tướng Khiêm là bạn thân của Đại tá Cao Văn Viên.”

Điều này rất đáng tin v́ theo Đại Tá Phạm Bá Hoa th́ “tôi quen biết chưa nhiều với Đại Tá Viên, nhưng theo bà Khiêm nói lại, theo đó th́ Thiếu Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Khánh và Đại tá Viên rất thân nhau, nhất là từ khi ba vị này c̣n là sĩ quan cấp úy và cùng chiến đấu ở mặt trận Na Sản trên đất Lào trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp. Và ba gia đ́nh này cũng thân nhau v́ có nhiều thời gian sống chung nhau ở Hà Nội trong khi các ông cùng ở mặt trận. Đó là nguyên nhân.”

Tướng Cao Văn Viên cũng phủ nhận chuyện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm dự định đến “ẩn trốn” trong nhà của ông vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 theo như lời ông Nguyễn Tiến Hưng thuật lại trong cuốn sách của ông. Một người bạn của Đại Tướng Cao Văn Viên có cho người viết biết về nội dung của cuộc điện đàm giưă Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 do chính Tướng Cao Văn Viên kể lại như sau:
“Khi nghe tiếng điện thoại reo, bà Cao Văn Viên nhắc điện thoại và nói “a-lô” th́ từ đường dây bên kia có tiếng nói giọng Huế “Mụ Viên đó hỉ !” Nhận ra đó là giọng của ông Ngô Đ́nh Diệm, bà Viên bèn chào: “kính chào Tổng Thống.” Ông Diệm hỏi: “Có Đại tá Viên ở nhà không?” Bà Viên nói rằng “Thưa Tổng Thống, nhà con đi họp trên Tổng Tham Mưu từ hồi sáng, hiện vẫn c̣n bị giữ trên đó chưa có về nhà.” Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nói với bà Viên: “Nói với ông Viên tôi gởi lời thăm. Thôi chào Mụ Viên hỉ !”

Đại tướng Cao Văn Viên kể lại như thế và nói rằng nội dung cuộc điện đàm cuối cùng giưă Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều 1 tháng 11 năm 1963 chỉ có như vậy, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không hề nhờ bà Cao Văn Viên cho đến nhà ẩn náu như có người đă đồn đại hoặc đă viết vào sách báo. Đại Tướng Cao văn Viên nói với người bạn này rằng ông rất kính trọng và kính phục tư cách của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, khi c̣n tại chức cũng như là trước khi từ giă cơi đời.

Cuốn “The Final Collapse” do cựu Đại Tướng Cao Văn Viên viết từ thời 1976-1977 và đă được xuất bản vào năm 1983, tuy nhiên đến 20 năm sau cuốn sách này mới được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với sự cho phép của tác giả. Trong bản dịch tiếng Việt nhan đề “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Ḥa,” tác giả có viết thêm phần “lời bạt” v́ tác giả “muốn có đôi lời để giải thích về một hai chú thích ở bản Anh ngữ…”
Về chuyện cuộc đảo chánh 1-11-1963, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết:
“Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác:
“Trưa ngày 1-11-1963, khi tŕnh diện Bộ Tổng Tham Mưu để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù,) tác giả được đưa lên gặp Tướng Dương Văn Minh thay v́ Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên Quân như thường lệ.
“Tướng Minh hỏi: “Tụi “moi” đảo chánh, toa nghĩ sao?”
“Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay?”
“Đó là nguyên văn câu hỏi và trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của Tướng Minh chỉa súng “carbine” vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có ǵ để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm t́nh của một số tướng tá theo phe đảo chánh và sự can thiệp của vợ ḿnh.

“Sáng ngày 2 tháng 11, 1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, Tổng Thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên Bộ Tổng Tham Mưu họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, TT Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, TT Diệm điện thoại một lần nưă. Khi được biết không c̣n hy vọng, TT Diệm không nói ǵ thêm và cũng không khi nào ngỏ ư đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không có ai mời TT Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.”

Trong một đoạn khác, cũng trong phần “Lời Bạt,” ông Cao Văn Viên nói rơ hơn là trong cuộc đảo chánh 1963, Tướng Dương Văn Minh có ư định giết ông: “Tác giả không hợp tác với Tướng Dương Văn Minh v́ ông ta có ư định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963…”

Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” v́ vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đă bị c̣ng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu v́ không chịu tham gia với phe đảo chánh.

Ba tháng sau, vào ngày 30 tháng 1 năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh lănh đạo một cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của các tướng lănh đạo cuộc đảo chánh TT Ngô Đ́nh Diệm là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim v.v. để lên cầm quyền. Lực lượng ṇng cốt được sử dụng trong cuộc đảo chánh này, được mệnh danh là “Chỉnh Lư” là Lữ Đoàn Nhảy Dù vẫn do Đại Tá Cao Văn Viên làm tư lệnh.

Không Ủng Hộ Đảo Chánh, Dù Là Đảo Chánh Ôn Ḥa

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng th́ sau khi chứng kiến hai tử thi cuả anh em cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nằm trong chiếc thiết vận xa ở Bộ Tổng Tham Mưu năm 1963, cơn ác mộng triền miên cuả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này là nguy cơ bị ám sát hay đảo chánh. Ông Thiệu đă cho TS Nguyễn Tiến Hưng biết rằng khi từ Dinh Gia Long về đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông ta thấy chiếc thiết vận xa đi đón TT Ngô Đ́nh Diệm đang đậu ở trước sân và ông đă ra lệnh cho người tài xế mở cửa sau chiếc xe này. Khi được nh́n thấy xác cuả cố TT Diệm và ông Nhu đầy vết dao đâm chém và vết đạn nằm trên sàn xe đẩm máu, ông kinh hoàng và muốn xỉu. Ông giở nón và nghiêng ḿnh trướùc hai xác chết. Tổng Thống Thiệu sau này nói rằng “nếu tôi t́m được Tổng Thống và bào đệ của ông ta trong Dinh Gia Long th́ tôi đă có thể đưa hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu trên một chiếc xe Jeep mui trần. Không có ai dám giết hai người đó giưă thanh thiên bạch nhật như vậy được.”

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói rằng cuộc đảo chánh 1963 cũng là một bài học thật đắng cay cho TT Nguyễn Văn Thiệu về tầm quan trọng của sự trung thành của giới sĩ quan dưới quyền ông. Có nhiều người đă phê b́nh gay gắt TT Thiệu cho rằng căn bản mà ông đă dựa vào đó để chọn Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội chỉ v́ ông đánh giá cao sự trung thành của ông Cao Văn Viên đối với TT Ngô Đ́nh Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Khi Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng phỏng vấn ông Thiệu tại London vào năm 1976, ông Thiệu đă bày tỏ với ông Hưng nỗi lo sợ của ông đối với việc người Mỹ có thể ám sát ông rồi đổ thưà cho Việt Cộng hoặc đảo chánh ông. Ông Thiệu biết rằng văn pḥng của ông bị người Mỹ nghe lén và sống trong một t́nh trạng luôn luôn âu lo cho sinh mạng của ông. Ông Thiệu nói với ông Hưng rằng “ tôi chỉ có an tâm trên sân quần vợt, ngay khi mà tôi bỏ chiếc vợt xuống th́ cái bóng ma đảo chánh lại trở về với tôi.”

Chính v́ vậy mà TT Thiệu đă chọn một vị tướng lănh không có tham vọng chính trị, một vị tướng lănh thuần tuư quân sự chỉ biết phục vụ cho quân đội mà thôi để đặt vào địa vị lănh đạo quân đội. Người đó là Tướng Cao Văn Viên.

Trong hàng ngũ tướng lănh Việt Nam, Đại Tướng Cao Văn Viên là người đă từng sống tại Hoa Kỳ lâu năm nhất, khoảng gần 4 năm kể cả thời gian làm tùy viên quân sự và theo học khoá CGS tại Fort Leavenworth. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân mà dường như ông có vẻ bị ảnh hưởng bởi truyền thống về vai tṛ cuả quân đội cuả người Mỹ, đó là quân đội chỉ có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ quốc gia. Do đó, không những ông không ủng hộ cuộc đảo chánh khi c̣n là đại tá chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù mà sau này khi nắm giữ vai tṛ lănh đạo toàn thể quân đội trên một triệu người, Đại Tướng Cao Văn Viên từ chối không chịu tham gia một âm mưu đảo chánh nào, dường như là đă có 3 lần âm mưu đảo chánh như vậy.

Đầu năm 1975, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến có tiết lộ vói người viết về một trong những âm mưu đảo chánh nhưng bất thành v́ Đại Tướng Cao Văn Viên không chấp thuận tham gia. Theo nhà báo Như Phong th́ cuối năm 1974 đầu năm 1975, t́nh h́nh chính trị và quân sự tại Việt Nam đang trên đà suy sụp, nhất là sau khi Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, một số người đă quy trách TT Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm về nguy cơ Miền Nam có thể đi đến chỗ sụp đổ và họ dự định làm một cuộc “đảo chánh ôn ḥa” để lật đổ ông Thiệu rồi đưa Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Theo nhóm người này th́ nếu cuộc đảo chánh thành công, chế độ hợp hiến VNCH vẫn tồn tại, Hiến pháp vẫn tồn tại, tuy nhiên với Cụ Trần Văn Hương làm tổng thống th́ Cụ sẽ đứng trên chính trị, giao quyền cho một chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội, có nghiă là chịu trách nhiệm trước quốc dân và Cụ sẽ giao cho quân đội hoàn toàn trách nhiệm trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản.

Nhà báo Như Phong nói rằng hồi đó, tất cả bốn vị tư lệnh quân đoàn và vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đều xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, đó là Đại Tướng CaoVăn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh QĐII, Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh QĐ III và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh QĐ IV và những người âm mưu tổ chức đảo chánh đă thuyết phục được đa số trong 4 vị tướng lănh này. Theo kế hoạch cuả những người này th́ 4 vị tư lệnh quân đoàn sẽ họp tại Bộ Tổng Tham Mưu dưới quyền chủ toạ cuả Đại Tướng Cao Văn Viên và họ sẽ mời TT Nguyễn văn Thiệu đến họp về t́nh h́nh quân sự rồi trong phiên họp này họ sẽ tuyên bố bất tín nhiệm ông Thiệu, đ̣i ông Thiệu từ chức hoặc là ép buộc ông Thiệu phải từ chức và sẽ mời Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế.

Nhà báo Như Phong nói với người viết rằng kế hoạch này đă thất bại v́ Đại Tướng Cao Văn Viên chủ trương quân đội không làm chính trị, ông từ chối không chịu tham gia đảo chánh, dù là đảo chánh “ôn hoà.”

Không Có Tham Vọng Chính Trị

Đối với Đại Tướng Cao Văn Viên, quân đội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ hiến pháp và bảo vệ quốc gia. Đại sứ Bunker cho biết rằng “một bằng chứng cho hành động xây dựng của phiá quân đội đối với chính phủ mới là việc Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đă ra lệnh cho Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị in cuốn Hiến Pháp 1967 với phần giải thích và phân phát cho mọi quân nhân các cấp trong quân đội với mục đích để cho mọi quân nhân có ư thức rộng răi về bản Hiến pháp cũng như là các nghiă vụ của công dân, kể cả quân nhân trong quân lực.”

Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đă nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên v́ tính t́nh chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một ḷng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử h́nh. Nhưng v́ ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…”

Đại Tướng Cao Văn Viên không hề có tham vọng chính trị, tuy nhiên vào năm 1967 th́ suưt nưă ông đă trở thành Quốc Trưởng nước Việt Nam Cộng Ḥa. Theo cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại trong cuốn hồi kư của ông th́:
“ Vào năm 1967, sau khi ông Thiệu tuyên bố ông dự định sẽ ra tranh cử Tổng thống, nhiều tướng lănh trong Quân ủy (tạm dịch chữ “politburo”của ông Kỳ) đă đến gặp riêng ông Thiệu và đ̣i ông ta đừng ra tranh cử. Họ nói với ông Thiệu rằng tôi đă giữ chức vụ tối cao đó trong một thời gian quá lâu để chứng tỏ rằng tôi biết làm việc và tôi có được sự hậu thuẫn sâu rộng trong Quân Lực VNCH.
“Các tướng lănh nói với ông Thiệu rằng:
-Ông hảy để cho ông Kỳ ra ứng cử tổng thống, lo làm chính trị và đương đầu với người Mỹ c̣n ông th́ hảy về làm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội.”
“ Ông Thiệu đă trả lời với các tướng lănh rằng:
-Không! Nếu các anh không muốn cho tôi làm ứng cử viên đại diện cho quân đội th́ tôi cũng chẳng cần đến quân đội nưă, tôi sẽ ra tranh cử một ḿnh.”
“… Khi gần ngày hết hạn ghi danh ứng cử và công bố liên danh đại diện cho quân đội, tôi mời các tướng lănh trong “quân ủy” họp lại. Tôi hỏi các tướng lănh:
-Thời gian mà chúng ta cần để thuyết phục ông Thiệu đừng ra ứng cử đă qua rồi. Các anh muốn ai, ông Thiệu hay là tôi?”
-Chúng tôi muốn ông” các tướng đồng thanh trả lời.
-Được rồi, tôi chấp nhận,” tôi nói.
“Các tướng hỏi lại tôi:
-Ông làm thế nào để thực hiện việc đó?”
“Tôi trả lời:
-Dễ dàng thôi! Nếu mà ông Thiệu muốn có một cơ may hy vọng nào th́ ông ta cần phải có sự ủng hộ của quân đội. Vậy th́ chúng ta hảy cho ông ấy về hưu. Hảy để cho ông ta ra ứng cử với tư cách dân sự nếu ông ta muốn.”
“Tất cả mọi người gật đầu đồng ư.
“Tôi nói tiếp:
-Như vậy th́ chức vụ quốc trưởng sẽ bỏ trống. Sự lưạ chọn hay nhất là Tướng Cao Văn Viên, ông Viên là người có cấp bậc cao và thâm niên nhất. Các anh có đồng ư không?”
“ Tướng Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng và tất cả các vị Tư lệnh Vùng đều ủng hộ ông ta. Ông ta là người tốt, một quân nhân giỏi và ông ta là một trong những người ủng hộ tôi mạnh mẽ nhất…”

Như vậy, theo sự tiết lộ của ông Kỳ th́ hồi năm 1967, nếu mọi sự xảy ra đúng như cái “quân ủy” của ông đă quyết định với nhau, có lẽ ông Thiệu đă bị cho về hưu và ông Cao Văn Viên đă trở thành quốc trưởng và khi đă làm đến chức vụ quốc trưởng th́ không ít th́ nhiều, đó là một chức vụ chính trị. Ông Cao Văn Viên không thích làm chính trị và may thay mọi sự đă không xảy ra như ông Kỳ và phe của ông dự định, ông Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă giữ Đại Tướng Cao Văn Viên ở lại chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH dù rằng theo ông Kỳ th́ ông Viên là một trong những tướng lănh ủng hộ ông mạnh nhất.

Theo cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn pḥng cuả Tướng Cao Văn Viên đă viết trong cuốn Đôi Ḍng Ghi Nhớ th́ Tướng Cao Văn Viên thân với Tướng Nguyễn Cao Kỳ hơn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu v́ ông đă được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH khi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là thủ tướng. Ít lâu sau đó, vào năm 1966, ông lại được Tướng Kỳ cử làm Tổng Tưởng Quốc Pḥng thay thế Trung Tướng Nguyễn Hữu Có và kiêm luôn chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCHù, tuy nhiên sau khi Hiến pháp được ban hành th́ việc kiêm nhiệm đó không hợp hiến do đó ông rời Bộ Quốc Pḥng chỉ giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và ở lại chức vụ đó cho đến năm 1975.

Tướng Cao Văn Viên Đă Xin Từ Chức Năm, Sáu Lần

Có nhiều người chê trách Đại Tướng Cao Văn Viên khi ông giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, họ nói rằng ông chỉ ngồi đó làm “hộp thơ” c̣n tất cả mọi sự điều động về quân sự đều do TT Nguyễn Văn Thiệu quyết định. Họ nói rằng ngay cả hai vụ triệt thoái Cao nguyên và Vùng I đều do ông Thiệu ra lệnh, Đại Tướng Cao Văn Viên không biết ǵ cả.

Qua lời kể lại cuả cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết rằng “trên thực tế, mỗi vị tư lệnh quân đoàn là một “ḥn đảo độc lập” và TT Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn liên lạc trực tiếp với họ. Không có một guồng máy trung ương nào về việc dự thảo các kế hoạch chiến tranh một cách hữu hiệu tại Bộ Quốc Pḥng.”

Trong cuốn “The Final Collapse” cuả ông, Đại Tướng Cao Văn Viên nói rằng “tất cả những quyết định về quân sự đều do TT Thiệu quyết định, Bộ Tổng Tham Mưu là hoàn toàn chỉ có tính cách cố vấn mà thôi.”

Có lẽ v́ cảm thấy bất lực không thể làm ǵ khác hơn để cải thiện guồng máy quân đội, Đại Tướng Cao VănViên đă xin từ chức mấy lần:
“Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đă đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lư do là v́ tác giả đă ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm,) đă đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận.) Lư do tác giả hành động như vậy v́ vào khoảng giưă năm 1970, sau một buổi họp với Đại Tướng Creighton Abrams (Tư Lệnh MACV,) ông ta cho biết theo tin ṭa đại sứ Hoa Kỳ, TT Thiệu có ư định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi măi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy ḿnh không c̣n được “sủng ái” nên đă xin về hưu.”

Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn pḥng cuả ĐT Cao Văn Viên cho biết rằng “Đại tướng xin từ chức mấy lần rồi mà Tổng Thống không chấp thuận, cho nên Đại tướng nói là Đại tướng không làm việc nưă cho đến khi được từ chức…” Đại Tá Hoa nói rằng đó là lời cuả bà Cao Văn Viên nói với ông ta nhân hôm sinh nhật cuả bà. Ông cũng cho biết thêm là từ năm 1972, Đại tướng Cao Văn Viên đă đệ đơn xin từ chức lên Tổng thống Thiệu tất cả là 4 lần nhưng đều bị ông Thiệu bác bỏ, do đó hàng ngày ông lái trực thăng từ tư dinh trong Chợ lớn lên Bộ Tổng Tham Mưu “làm việc tại văn pḥng nhưng cũng không làm hết việc cuả văn pḥng nưă chứ v́ những nhu cầu quan trọng do các vị tư lệnh tŕnh xin Tổng Tham Mưu theo hệ thống quân giai th́ Đại Tướùng Viên bảo các vị đó xin lên tổng thống…”

Ông Trần Văn Đôn cũng cho biết như vậy. Theo ông Đôn th́ “đă nhiều lần ông Viên bày tỏ ư không muốn giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng nữa, xin từ chức hoài nhưng ông Thiệu không chấp nhận.”

Trong một cuộc phỏng vấn thu h́nh dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đă xin từ chức tất cả là 6 lần: “Trước khi cuộc hội đàm tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc vào năm 1973, t́nh h́nh quân sự càng thêm căng thẳng. Tổng Thống Thiệu, với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp về hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai tṛ tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc Pḥng chỉ c̣n là “hộp thơ” giữa tổng thống và Bộ Tổng Tham Mưu. V́ không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đă năm, sáu lần xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại đợi người thay thế nhưng ông lại không có quyết định, Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm…”

Như vậy, theo Đại Tướng Cao Văn Viên th́ tuy giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng quyền bính th́ do Tổng Thống Thiệu hoàn toàn nắm giữ. Điều này cũng không có ǵ lạ v́ ngay cả thượng cấp của ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng và Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ Tướng cũng không hề được biết ǵ nhiều hơn ông.

Trong bài “Mạn Đàm Với Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên” cuả Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh ngày 1 tháng 9 năm 2001 tại California, Bác sĩ Viên, cựu Phó Thủ Tướng trong chính phủ cuả Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm đă kể lại rằng:
“Vụ Ban Mê Thuột làm tan hoang hết. Nội các không hề được hỏi ư kiến. Pas un mot (không mội lời.) Một ngày sau khi bỏ Pleiku, có nhóm hội đồng nội các. Sau chương tŕnh nghị sự, Tổng trưởng Ngô Khắc Tĩnh dơ tay lên nói “thưa Thủ Tướng, tôi xin Thủ Tướng một đặc ân. Dầu sao chúng tôi cũng là nhân viên nội các, bà xă tôi vừa nghe tin mất Pleiku trên đài BBC và đài VOA mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ Tướng nếu có tin ǵ th́ xin thông báo cho chúng tôi, chớ không th́ kỳ quá!” Lúc đó trên bàn chủ tọa, Thủ Tướng Khiêm quay qua tôi ngồi phiá bên trái, nó nhỏ “moa cũng vậy.” Tôi ngạc nhiên hỏi lại “Bộ nói giả ngộ hay sao? Anh là Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng, đại tướng 4 sao mà!.” Ông Khiêm gật đầu “thật chớ!” (nguyên văn.)

TS Lâm Lễ Trinh hỏi: “Không lẽ ông Thiệu lại quyết định một ḿnh chuyện quá nghiêm trọng như vậy?” và BS Nguyễn Lưu Viên trả lời: “Tôi có nghe “h́nh như” Tổng Thống Thiệu có hội ư với hai tướng Cao Văn Viên và Phạm Văn Phú. Tuy nhiên sau tháng 4 năm 1975, tôi thoát được qua đảo Guam, có gặp một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tổng Tham Mưu, họ quả quyết ông Viên chỉ biết sau khi việc này xảy ra. Phủ Tổng Thống ra lệnh thẳng cho các tư lệnh vùng, không qua Tổng Tham Mưu, bằng một hệ thống trực tiếp. Vậy, ông Thiệu đă chỉ thị ngay cho Tướng Phú? Điểm này, nghĩ nên duyệt lại.” TS Trinh hỏi: “Tại sao Thủ Tướng Khiêm và anh không phản đối?” và BS Viên trả lời: “Phản đối cách nào và v́ sao? Có biết đâu mà phản đối? Đây là vấn đề quân sự..”

Trong cuộc tiếp xúc với Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu sĩ quan tuỳ viên và là người thân tín cuả Cố TT Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng, ông Nhựt cho biết là khoảng ngày 25 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có cho người mang đến tŕnh lên cho TT Hương một lá thư dày cộm. Ông Nhựt nói rằng TT Hương đă ra lệnh cất ngay lá thư này vào tủ sắt và trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh, Cụ Hương đă ra lệnh đốt lá thư này đi. Đại úy Nhựt hỏi Cụ Hương sao Cụ không mở lá thơ xem Tưóng Phú nói ǵ về vụ triệt thoái Cao Nguyên nhưng Cụ Hương nhất định không đọc v́ Cụ nói rằng Tướng Phạm văn Phú đang ở trong t́nh trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông trong việc di tản Quân Đoàn II và Cụ đă bắt phải đốt lá thư cuối cùng cuả tướng Phú trước mặt Cụ. Đại Úy Nhựt nói rằng có lẽ trong lá thơ đó, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có thể giải thích cho Cụ Hương về những lệnh mà ông nhận được từ TT Nguyễn Văn Thiệu và như vậy th́ có thể làm sáng tỏ được nhiều ẩn khuất, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương ra lệnh đốt đi mà không đọc, do đó cho đến giờ này chỉ c̣n có Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất c̣n sống và một ngày nào đó, có thể Đại Tướng sẽ bạch hoá vấn đề này.

Vai Tṛ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH

Khi nghe nói rằng một ông đại tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng một quân đội trên một triệu người mà những chuyện đại sự như là di tản Quân Đoàn II từ vùng Cao Nguyên vể miền đồng bằng hoặc Quân Đoàn I có giữ Huế hay không mà ông Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng không biết ǵ hết về kế họch triệt thoái và chuyện Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ tướng cũng cho biết rằng rằng chính cấp trên của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng là Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng cũng là một đại tướng 4-sao mà cũng không biết ǵ nốt th́ điều kỳ quái đó không ai có thể tin được.

Trong suốt hơn 30 năm qua, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống rất thầm lặng tại Hoa Kỳ, ông không hề tiếp xúc với bất cứ cơ quan truyền thông nào và cũng không hề trả lời một cuộc phỏng vấn nào trên báo chí. Một vài chi tiết về ông là do một số người khác kể lại, chẳng hạn như Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, một người bạn và cũng là phó thủ tướng trong nội các của ông một thời gian khá dài đă kể lại câu chuyện được ghi lại trong bài mạn đàm của Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh.

Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng giữ thái độ im lặng, tuy nhiên khi cuốn The Final Collapse của ông được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt và xuất bản vào năm 2003 th́ ông Cao Văn Viên có viết thêm một đoạn gọi là “Lời Bạt” từ trang 255 đến trang 268 trong đó ông có tiết lộ một số chi tiết có liên quan đến một vài vấn đề chính trị và quân sự hồi trước năm 1975 và cũng có thêm một đôi điều để đính chính một vài điểm không đúng với sự thật về cá nhân ông và quân đội trong cuốn sách “The Palace File” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Một trong những điều quan trọng trong phần này là vai tṛ của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ tháng 7 năm 1970 cho đến tháng 4 năm 1975.

Trong phần “Lời Bạt” cũng như là Phụ Bản A về “Vai Tṛ của Bộ Tổng Tham Mưu,” cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng vào tháng 7 năm 1970, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă ban hành một sắc luật cải tổ các cơ cấu quốc pḥng và quy định vai tṛ cùng trách nhiệm của Bộ Tổng Tham Mưu.

Theo Tướng Cao Văn Viên th́ “Bộ Tổng Tham Mưu được định nghĩa là một ban tham mưu của liên quân chủng, tạm thời có cơ cấu giống như một bộ tư lệnh Lục Quân. Không Quân và Hải Quân có bộ tham mưu riêng của các quân chủng đó…Trên thực tế và bản chất, Bộ Tổng Tham Mưu là một bộ tham mưu của Lục Quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia…, chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng trưởng quốc pḥng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và sử dụng quân đội trong đường hướng do tổng thống định liệu.
“Nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu bao gồm:
-Tổ chức và phát triển quân lực. Sử dụng quân đội để bảo vệ quốc gia và b́nh định lănh thổ.
-Thu thập, khai thác tin tứùc t́nh báo, phản gián có tích cách chiến lược và chiến thuật.
-Phát triển, bổ dụng, bảo tŕ và quản trị quân đội.
-Thiết lập cấp số quân đội quân đội và nhân viên dân chính cần thiết cho Bộ Tổng Tham Mưu Thiết lập kế hoạch tiếp vận, theo dơi và cung cấp vũ khí, quân nhu và quân dụng cho quân đội.
-Huấn luyện binh sĩ, nâng cao tinh thần và đời sống vật chất cho quân nhân các cấp.
-Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến. Khi được chỉ định, soạn thảo kế hoạch hành quân hỗn hợp với các quốc gia đồng minh đang chiến đấu tại Việt Nam.
-Soạn thảo và ban hành luật pháp căn bản về vấn đề giam giữ và đối xử với tù binh chiến tranh.
“Với vai tṛ và nhiệm vụ được viết ra thành từng chi tiết nhỏ, chúng ta nhận thấy nhiệm vụ của Bộ TTM không liên quan ǵ đến những quyết định tối hậu của cuộc chiến, đó là trách nhiệm của tổng thống…Bốn quân đoàn, trên lư thuyết, nằm dưới quyền điều khiển của Bộ TTM, tuy nhiên về bản chất của cuộc chiến và cấp số của các cuộc hành quân cho nên trách nhiệm về hành quân được hoàn toàn ủy thác cho tư lệnh các quân đoàn/quân khu. Tư lệnh các quân khu có trách nhiệm về hành chánh, tư lệnh các quân đoàn/quân khu có quyền hành và trách nhiệm trong một khu vực rộng lớn, Bộ TTM ít khi xen vào kế hoạch hành quân hay quyết định của các quân đoàn, trừ trường hợp có hành quân hay thám thính vượt qua biên giới hay quân đoàn yêu cầu cho tăng viện các đơn vị tổng trừ bị dưới quyền của Bộ TTM. Vị tư lệnh quân đoàn là người cớ luôn thẩm quyền về kế hoạch b́nh định và phát triển ở trong vùng trách nhiệm nên họ có thẩm quyền sử dụng tài nguyên quốc gia được chỉ định phân phối cho vùng và đặt các tỉnh trưởng dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là một quyền hạn mà Bộ TTM không bao giờ có được. Quyền hạn của các tư lệnh quân đoàn rất lớn. Họ thường liên lạc thẳng với tổng thống để nhận và thi hành quân lệnh. Và họ cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng thống…”

Như vậy, theo tinh thần của sắc luật về vai tṛ của Bộ TTM được Tổng Thống Thiệu ban hành vào tháng 7 năm 1970 th́ không thấy nói ǵ đến quyền điều động các đại đơn vị tức là 4 quân đoàn. Đại Tướng Viên cho biết rằng: “Khi Hiệp định Paris 1973 được kư kết, quốc sách “4 Không” ra đời, lúc mà tất cả mọi hoat động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị th́ các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh quân đoàn, quân khu cùng các tư lệnh quân binh chủng như Hải Quân, Không Quân v.v. được diễn ra trong Dinh Độc Lập thay v́ ở Bộ TTM như thường lệ. Những buổi họp này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Từ đó, Tổng Thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, Tổng Thống Thiệu đă đạt được quyền hành tuyệt đối, tập trung mọi quyền hành pháp, lập pháp và quân đội vào một mối duy nhất…”
“…Khi Tổng Thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH th́ Bộ TTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không quân và Hải Quân cũng như là liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng Liên quân của Bộ TTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, Đại Tướng Weyand, đă khuyến cáo chính phủ (Việt Nam) nên dành nhiều quyền hành cho Bộ TTM hơn.”

Để chứng minh cho những điều nói trên, Tướng Cao Văn Viên cho biết tại Cam Ranh, chính Tổng Thống Thiệu quyết định và ra lệnh trực tiếp cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú “tái phối trí lực lượng”:
“Đây là lệnh trực tiếp của Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú tái phối trí lực lượng cơ hữu (lực lượng của quân đoàn) để tái chiếm Ban Mê Thuột. Do đó không có lư do ǵ Bộ TTM gọi gọi Tướng Phú về Sài G̣n để thiết kế việc rút lui. Tuy lệnh quân đoàn và bộ tham mưu phải có khả năng làm việc đó. Trong kế hoạch rút lui, chính Tướng Phú chọn đường Liên Tỉnh lộ 7B để có yếu tố bất ngờ v́ các trục lộ khác đă bị địch quân chiếm giữ…”

Về t́nh h́nh tại Quân Đoàn I ở miền Trung, Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng Quân Đoàn I không báo cáo cho Bộ TTM biết về việc Sư Đoàn 1 Bộ Binh rút ra khỏi Huế về phía nam. Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3 Bộ TTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ông cũng cho biết thêm rằng việc các tướng lănh thuộc Quân Đoàn I rút lui trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về Bộ TTM. Chuẩn Tướng Thọ biết được việc này là qua báo cáo của hệ thống truyền tin Hải Quân…

Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là  một vị tướng lănh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.

Theo ông Trần Văn Đôn trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” th́ ngày 23 tháng 4, sau khi nội các Nguyễn Bá Cẩn từ chức, ông gặp Dương Văn Minh và ông Minh yêu cầu ông Đôn nói với Đại tướng Cao Văn Viên nên ngồi lại ghế Tổng Tham Mưu Trưởng. Ông Đôn đề nghị ông Minh đến thăm ĐT Cao Văn Viên để nói chuyện đó v́ có lần ông Viên dọa “....T ôi sẽ từ chức ngay. Tôi không thể nào làm việc với ông Dương Văn Minh.”

Chiều ngày 24 tháng 4 năm 1975, ông và Đại Tướng Cao Văn Viên vào gặp TT Trần Văn Hương để phúc tŕnh về t́nh h́nh quân sự, TT Trần Văn Hương nói với hai ông là Cụ chia xẻ với số phận cuả anh em quân nhân tại chiến trường và sẵn sàng cùng chết với anh em chiến sĩ. Sau đó, TT Trần Văn Hương chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH. Đại Tướng Cao Văn Viên nhận lời tuy nhiên ông đă khẩn khoản xin với TT Trần Văn Hương cho phép ông được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương nếu Cụ Hương phải bàn giao quyền hành lại cho Dương Văn Minh và lời yêu cầu của Đại Tướng Viên đă được TT Trần Văn Hương chấp thuận.

Trưa ngày 27 tháng 4, sau khi Cụ Hương họp để bàn về việc đề nghị với quốc hội giao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh và cũng theo ông Trần Văn Đôn th́ “buổi họp chấm dứt lúc 12 giờ trưa. Sẵn dịp đó ông Viên xin ông Hương kư sắc lệnh cho ḿnh được nghỉ dài hạn không lương kể từ ngày đó với lư do “không thể làm việc dưới quyền ông Minh.” Ông Hương chấp thuận lời yêu cầu của ông Viên.”

Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: “Tối chủ nhật 27 tháng 4 năm 1975, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, v́ thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả “tŕnh miệng” với Trung Tướng Trần Văn Đôn đang là Tổng Trưởng Quốc Pḥng trong nội các của Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, tŕnh lên TT Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đă xin từ 5 năm về trước. Tổng Thống Trần văn Hương biết rơ chuyện này nên đă kư sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, Phụ tá của Tổng Thống Hương, hiện đang sống bên Pháp, biết rơ chuyện này.”

Đại Tướng Cao Văn Viên xác nhận chuyện này trong cuộc phỏng vấn dành cho Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh vào năm 2006: “Tuy nhiên khi Tổng Thống Trần Văn Hương nhường ghế cho Tướng Dương Văn Minh tháng 4 năm 1975, tôi cương quyết xin giải ngũ v́ tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. Tổng Thống Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27 tháng 4 năm 1975, tôi rời Việt Nam trong t́nh trạng hợp lệ.”

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, tuỳ viên của TT Trần Văn Hương, cho người viết biết rằng TT Trần Văn Hương đă kư sắc lệnh này tối ngày 27 tháng 4 năm 1975 và đă cho nhân viên thuộc Phủ Tổng Thống mang tay vào Bộ Tổng Tham Mưu trao cho Đại Tướng Cao Văn Viên ngay trong đêm hôm đó.

Sáng ngày 28 tháng 4, trước khi TT Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh vào buổi chiều, ông Đôn đến văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng và gặp ông Cao Văn Viên để theo dơi t́nh h́nh quân sự. Ông Cao Văn Viên nhắc ông Đôn rằng ông đă được TT Trần Văn Hương cho nghỉ dài hạn và yêu cầu ông Đôn, với tư cách là Tổng Trưởng Quốc Pḥng, chỉ định người thay thế. Ông Đôn nói rằng ngay lúc đó th́ ông Minh gọi điện thoại đến và dặn ông Đôn cố giữ ông Viên ở lại chức Tổng Tham Mưu trưởng, đừng để cho ông Viên đi. Ông Đôn nói ông không biết xử sự ra sao v́ nếu ông Tổng Tham Mưu trưởng chỉ đi vắng một thời gian th́ ông có thể chỉ định một tướng lănh khác xử lư thường vụ, tuy nhiên đằng này ông Viên nghỉ luôn th́ việc đó phải do tổng thống, tổng tư lệnh tối cao quân đội chỉ định. Ông Đôn c̣n cho biết thêm rằng chiều hôm đó, ông Dương Văn Minh lại gọi cho ông ở Bộ Quốc Pḥng và dặn ông hủy bỏ sắc lệnh mà TT Trần Văn Hương đă kư cho phép ông Cao Văn Viên được nghỉ dài hạn: “về lại văn pḥng, tôi nhận được điện thoại của ông Minh dặn hủy bỏ sắc lệnh mà ông Hương đă kư cho phép ông Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó ông Hương đă gởi thẳng cho ông Viên rồi, lúc đó ông Hương chưa trao lại quyền tổng thống cho ông Minh.”

Đây là một chuyện thật khôi hài v́ ông Trần Văn Đôn chỉ là Xử lư Thường vụ Tổng trưởng Quốc Pḥng th́ làm sao mà ông ta lại có đủ thẩm quyền để huỷ bỏ một sắc lệnh do tổng thống đă kư? Lúc đó th́ Cụ Hương chưa bàn giao và ông Minh cũng chưa có trở thành tổng thống cho nên cái sắc lệnh do Cụ kư vẫn có giá trị. TT Trần Văn Hương là người luôn luôn giữ chữ tín, trọng nguyên tắc và cẩn thận, Cụ biết rằng việc Đại Tướng Cao Văn Viên xin Cụ nghỉ dài hạn v́ không thể phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh là chính đáng và đă được Cụ chấp thuận, do đó Cụ đă kư sắc lệnh và cho người mang trao tận tay cho ông Viên trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh vào buổi tối ngày 27 tháng 4 năm 1975. Nhờ sự thông cảm của Cụ Trần Văn Hương, Đại Tướng Cao Văn Viên đă được măn nguyện v́ ông không thể nào phục vụ dưới quyền một người đă từng ra lệnh c̣ng tay ông, đă từng nhốt ông và đă từng có ư định muốn thủ tiêu ông chỉ v́ ông là một quân nhân, một quân nhân thuần tuư chỉ biết trung thành với “Quốc Gia, Danh Dự và Trách Nhiệm” chỉ biết phục vụ Quốc Gia, phục vụ chính phủ hợp hiến hợp pháp, chứ không phục vụ cho một cá nhân hay một phe phái nào. Ông Cao Văn Viên đă giải thích nguyên nhân tại sao ông nhất quyết không phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh như sau: “Tác giả không hợp tác với Tướng Minh v́ ông ta có ư định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp và lư do quyết định nhất là đă ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm,) sức khoẻ kém và đă xin về hưu 3 lần rồi…”

Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu tuỳ viên cuả TT Trần Văn Hương tiết lộ với người viết rằng khi Cụ Hương chỉ định ĐT Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh th́ ĐT Viên có ngỏ lời yêu cầu với Cụ Hương xin cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh nhưng TT Trần Văn Hương không trả lời. Ông Nhựt nói rằng sau đó, ĐT Cao Văn Viên có gởi đến Phủ Tổng Thống một văn thư chính thức đề nghị cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH nhưng TT Trần Văn Hương cũng lại để sang một bên trên bàn viết. Ông Nhựt cho biết sau khi Cụ Hương kư sắc lệnh cho phép ĐT Cao Văn Viên được nghỉ giải hạn không lương vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, ông đă lấy hồ sơ về đề nghị của Tổng Tư Lệnh xin bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh QLVNCH đặt ngay ngắn trước mặt Cụ Hương nhưng Cụ Hương nói với ông Nhựt rằng Tướng Ngô Quang Trưởng đang ở trong t́nh trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông ta ở Quân Đoàn I, do đó dù rằng Cụ rất có cảm t́nh với TT Ngô Quang Trưởng nhưng Cụ không thể nào bổ nhiệm ông Trưởng thay thế cho ĐT Cao Văn Viên được.

Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên được TT Trần Văn Hương kư sắc lệnh cho phép được nghỉ dài hạn không lương ngày 27 tháng 4 năm 1975, vị tướng lănh cao cấp nhất tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, do đó trên nguyên tắc Tướng Khuyên là Xử Lư Thường Vụ chức vụ này. Theo Frank Snepp th́ vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, “Tướng Nguyễn Cao Kỳ đi lang thang trong hành lang vắng vẻ của Bộ Tổng Tham Mưu để t́m tướng Đồng Văn Khuyên nhưng ông Khuyên đă biến mất.”

Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận dưới quyền Trung tướng Đồng Văn Khuyên, đă kể lại sự ra đi không một lời giả biệt với ông như sau:
“…Trung Tướng Khuyên đi thẳng lên xe Jeep, ông nh́n thẳng phía trước và im lặng trong khoảng 5 phút. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, và tôi nghĩ: “phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu từ đây?” Ông không nói một tiếng nào trong khoảng thời gian đó, sau cùng ông ra hiệu bằng tay và anh hạ sĩ quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người đưa tay lên trán chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu rằng tôi biết chuyện ǵ đang xảy ra…Tôi không chút phiền muộn nào đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đă không một lời từ biệt tôi, một lần từ biệt với biết bao hiểm nguy cho kẻ ở lẫn người đi! Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975…”

Theo ông Trần Văn Đôn th́ “8 giờ 15 sáng ngày 29-4-1975, tôi đến Tổng Tham Mưu, nhưng vừa tới cổng th́ viên sĩ quan ở cổng chận tôi lại không cho vô v́ bên trong đang bị pháo kích. Gần 20 phút sau, tôi vô văn pḥng Trung tướng Đồng Văn Khuyên mà Đại Tướng Cao Văn Viên đề cử Xử lư Thường Vụ Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, tôi mới biết ông Viên đă ra khỏi nước bằng chiếc trực thăng riêng đến cơ quan DAO là cơ quan lo việc tản cư của Mỹ, từ đó chở qua Bangkok, xong lấy phi cơ bay thẳng qua Mỹ. Ông Viên đi ngày 28 tháng 4 sau khi đă sắp xếp nội bộ Tổng Tham Mưu xong. Họ có sắp xếp trước, nếu không th́ đâu có đi dễ dàng như vậy. Lúc đi ra khỏi nước ông Viên mặc quần jeans, sơ mi thường. Đến Bangkok, ông lấy vé phi cơ dân sự bay thẳng đến Hoa Thịnh Đốn như một du khách chứ không qua các thủ tục như các người tỵ nạn khác.”

Cũng theo lời ông Đôn, ngay sau đó ông gọi điện thoại để báo cáo t́nh h́nh bi đát cho Dương Văn Minh và yêu cầu ông Minh chỉ định gấp cho một Tổng Tham Mưu trưởng mới và đề nghị nên cử Trung Tướng Vĩnh Lộc hay Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông Minh đă chỉ định Trung Tướng Vĩnh Lộc vào chức vụ này. Như vậy, Trung Tướng Vĩnh Lộc là vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH nhưng ông cũng đă rời khỏi Việt Nam vào tối 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thực ra th́ dù ông Minh có muốn bổ nhiệm Trung tướng Trưởng làm Tổng Tham Mưu Trưởng th́ cũng đă quá trể v́ ông Trưởng đă rời Việt Nam theo trực thăng cuả Tướng Nguyễn Cao Kỳ, phi cơ này đáp xuống hàng không mẫu hạm Midway cuả Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 1 giờ 12 chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau đó hai ông được đưa sang chiến hạm Blue Ridge.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông Cao Văn Viên đă không dự lễ “trao quyền tổng thống” cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập v́ vào buổi chiều ngày hôm đó ông không c̣n là Tổng Tư Lệnh hay là Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH nưă, ông chỉ là một thường dân mà thôi. Theo ông Trần Văn Đôn th́ người đại diện cho Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tại lễ nhậm chức của ông Dương Văn Minh là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân.

Có nhiều người mến phục Đại Tướng Dương Văn Minh và họ xem ông ta như là một bậc anh hùng. Ông Minh đă được ca tụng là anh hùng đến hai lần trong đời của ông: lần đầu tiên ông được xưng tụng là “Anh hùng Rừng Sát” sau khi ông chỉ huy cuộc hành quân tiêu diệt B́nh Xuyên tại Rừng Sát vào năm 1955 và lần thứ hai ông được xưng tụng là “Anh hùng Cách Mạng” sau khi ông lănh đạo cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, đă giết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa. Tuy nhiên cũng có một số người không những không xem ông Dương Văn Minh như là một bậc anh hùng, trái lại họ không phục ông Minh dù rằng ông Minh đă từng giữ những chức vụ như Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Quốc Trưởng và… Tổng Thống “trao quyền.” Một trong những người đó là Đại Tướng Cao Văn Viên.

Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không chịu phục vụ dưới quyền cựu Đại Tướng Dương Văn Minh, người lănh đạo cuộc đảo chánh năm 1963, người đă ra lệnh c̣ng tay ông và suưt nưă th́ ông cũng bị thủ tiêu và khi ông Dương Văn Minh nhậm chức “tổng thống” vào giờ chót, ngày chót của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa, ông đă không phải mặc quân phục tŕnh diện trước ông tân tổng thống mà ông không phục v́ ông cương quyết không nhận bất cứ chức vụ nào dưới quyền ông Dương Văn Minh. Theo ông Trần Văn Đôn th́ cũng vào ngày ông Dương Văn Minh được TT Trần Văn Hương “trao quyền” tổng thống tại Dinh Độc Lập th́ ông Cao Văn Viên đă để lại bản sao sắc lệnh cuả Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương, cho phép ông được nghỉ dài hạn không lương kể từ ngày 27 tháng 4 năm 1975 trên bàn giấy của ông rồi ra phi trường bay sang Bangkok, từ đó ông lên phi cơ thương mại bay thẳng sang Hoa Kỳ.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có một số dư luận đưa ra những sự đồn đại không những chẳng có mấy tốt đẹp mà lại c̣n có tính cách nhục mạ vị tướng lănh cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Họ nói rằng Đại Tướng Cao Văn Viên đă “hèn nhát bỏ chạy ra ngoại quốc sau khi để lại trên bàn giấy lá đơn xin từ chức dưới tấm bảng 4-sao của ông.” Điều này hoàn toàn không đúng sự thật.

Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là một vị tướng lănh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.
Ngược lại, vào cuối tháng 4 năm 1975, mọi quân nhân từ cấp tướng lănh, các sĩ quan cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan và anh chị em chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 (trong số đó có cả người viết bài này đă may mắn nhảy lên được một chiếc xà lan của Hoa Kỳ rời khỏi Kho 5 ở Khánh Hội vào lúc 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975,) tức là trước ngày Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tất cả những người đó đều đă rời bỏ nhiệm sở một cách “bất hợp pháp” v́ họ không hề nhận được lệnh hay sự cho phép của cấp chỉ huy trực tiếp để rời khỏi đơn vị, chỉ riêng có một ḿnh cựu Đai Tướng Cao Văn Viên là đă ra đi một cách hợp pháp v́ ông là người quân nhân duy nhất, vị tướng lănh duy nhất đă được chính vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực tức là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà kư sắc lệnh chính thức cho phép nghỉ dài hạn không lương (một h́nh thức gần như được giải ngũ trong quân đội) và do đó, không c̣n có trách nhiệm ǵ nưă trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khi ông rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, không đầy một ngày trước khi “Tổng Thống” Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể các đơn vị trong QLVNCH buông súng đầu hàng quân đội Cộng sản Bắc Việt.

*
* *

Trong phần kết luận của bài phỏng vấn vị Đại Tướng khả kính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cách đây gần hai năm trước khi ông từ giă cơi đời, Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh có nói:
“Đại Tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong kư ức những người từng biết đến ông- thân hữu, bạn đồng đội cũng như những kẻ bất đồng ư kiến với ông- h́nh ảnh của ḷng chung thủy, “trước sau như một,” không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê b́nh, chủ trương đoàn kết trong t́nh huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp lên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một vị tướng lănh phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu…”

Đại Tướng CaoVăn Viên, vị tướng lănh đă từng lănh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trong gần 10 năm sau cùng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ và no ấm cho mấy chục triệu nhân dân miền Nam để chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt đă từ giă đồng đội, từ giă cơi đời vào hồi 6 giờ 15 sáng ngày thứ ba 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 87 tuổi..
Đại Tướng Cao Văn Viên đă ra người thiên cổ.

Khi nói về những người chiến sĩ già đă ra đi về miền miên viễn, Thống Tướng Douglas MacArthur, một đại danh tướng của quân đội Hoa Kỳ từng nói một câu bất hủ:
Những người lính ǵà không bao giờ chết, họ chỉ tàn úa mà thôi!

Tất cả mọi cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xin thành kính nghiêng ḿnh trước sự ra đi của vị anh cả một thời của họ trong quân đội.
Đại Tướng Cao Văn Viên không chết, ông chỉ tàn úa với thời gian.

Trần Đông Phong

Tham khảo

PhạmVăn Liễu: “Trả Ta Sông Núi,” trang 244.
Harold G. Moore : « We’re Soldier Once ...and Young, » trang 308.
Đoàn Thêm: “Hai Mươi Năm Qua: 1945-1965,” trang 383.
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hoà,” Vietnambibliography, Virginia, 2003. Trang 258.
Trừ Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền bị giải ngũ và Trung Tá NguyễnNgọc Khôi chỉ lên đến cấp Đại tá, các vị sĩ quan khác nói trên về sau đều trở thành tướng lănh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
Mạn đàm với cựu Hải Quân Đại Tá NBT tại Westminster, California ngày 3-11-03.
Nguyễn Hữu Duệ: “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm,” tác giả xuất bản, San Diego 2003, Trang 168-169.
Trần Văn Đôn: “Việt Nam Nhân Chứng,” Xuân Thu, California 1989, trang 217.
Phạm Bá Hoa: “Đôi Ḍng Ghi Nhớ,” nhà xuất bản Ngày Nay, Houston, Texas, 1994,, trang 1-19
Nguyễn Hữu Duệ: Sđd., trạng.
Mạn đàm với cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi tại Garden Grove, California, tháng 9 năm 2005.
Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: “The Palace File,” Harper & Row Publishers, New York, 1986 , trang 79
Nói chuyện với cựu Đại Tá Trần Văn Thăng, Stanton, California, 12-2002.
Phạm Bá Hoa: sđd, trang 1-19/20
Nói chuyện với ông NVN, California, tháng 6/2003.
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd., trang 258.
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd., trang 267.
Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter: sđd, trang 77
Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter : sđd, trang 80
Trần Văn Đôn: sđd, trang 463: “…ba lần ông Kỳ xin đảo chánh nhưng ông Viên không chấp nhận, nên ông Thiệu càng thích hơn..”
Ellsworth Bunker: “Report To The President From Vietnam, September 20, 1967,” The Bunker Papers, Institute Of East Asian Studies, University Of California At Berkley, 1990, trang 169-170
W.C. Westmoreland: “A Soldier Reports,” bản dịch Việt ngữ của Duy Nguyên, nxb Thế Giới, San Jose CA, 1996, trang 352-353
Nguyễn Cao Kỳ with M. Wolf: “Buđha’s Child,”, trang 241-242.
Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: sđd, trang 226
Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: sđd, trang227
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 255.
Phạm Bá Hoa: sđd, trang 8-217/219
Trần Văn Đôn: sđd, trang 463
Lâm Lễ Trinh : « Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên » ngày 27 tháng 2 năm 2006.
Lâm Lễ Trinh: “Mạn Đàm Với B.S. Nguyễn Lưu Viên: Từ Hội Nghị La Celle St Cloud Đến Những Ngày VNCH Hấp Hối,” ngày 1 tháng 9 năm 2001
Phỏng Vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, Stanton, California 10-2002
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong : Sđd., « Phụ Bản A : Vai Tṛ của Bộ TTM, » trang 269-271.
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong : Sđd., trang 256-257.
Cao Văn Viên và Nguiyễn Kỳ Phong : Sđd., trang 262.
Cao Văn Viên và NK Phong : Sđd., trang 142.
Trần Văn Đôn: sđd.,trang 465
Trần Văn Đôn: sđd., trang 470
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 257.
Lâm Lễ Trinh : Mạn đàm với ĐT Cao Văn Viên, » 17 tháng 2 năm 2006.
Trần Văn Đôn: sđd, trang 474
Phỏng Vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, 10-2002
Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 257.
Frank Snepp: “Decent Interval,” First Vintage Books Edition, 1978, trang 503.
Phạm Bá Hoa: sđd, trang 9-287
Trần Văn Đôn: sđd, trang 475
Lâm Lễ Trinh: Mạn đàm Với ĐT Cao Văb Viên,” ngày 27 tháng 2 năm 2006

 

[_templates/thtqlcvn-footer.htm]