Cùng suy gẫm, trong im lặng, nhân mùa 30-4

Vô danh  

Mỗi người Việt Nam chúng ta đều có một 30-4-1975.

Biết bao nhiêu kinh nghiệm riêng tư, hồi kư đă được viết ra, biết bao nhiêu sử liệu đă được bạch hóa, kèm với những phân tích nhận định nặng tính chia chẻ phần mớ, có khi đầy thiên kiến và chấp chứa hận thù (!!!)

Phân nửa của gần 80 triệu dân Việt Nam ngày nay, và của khoảng 6 tỷ dân trên thế giới, sinh ra sau 1975. Tại sao đối với những người này Việt Nam vẫn được tŕnh bày như một nước chiến tranh và dân tộc Việt Nam như một khối thù hận ?

Hăy cùng nhau im lặng để trầm mặc cái lư và cái phi lư của sự kiện vừa nêu.

Và xin gom nơi nay (không b́nh luận) một số đoạn trích từ các bài viết đăng trong các sách và các báo trong và ngoài nước, để độc giả suy gẫm. (Bài này tôi không viết ǵ cả nên xin miễn đề tên).

I.- Trích từ bài Gặp Tướng Ngô Quang Trưởng lần cuối cùng tại BTL QĐI (Đà Nẵng), của Lê Đ́nh Cai, đăng trên Nhật Báo Người Việt (Cali, Hoa Kỳ) số 5988-5989, ngày 30-4 và 1-5/2002.

[...] Bây giờ sau hơn 1/4 thế kỷ, đọc lại lời trần t́nh của Trung tướng trên báo chí mới hay rằng việc bỏ Huế và Quân đoàn I cũng như mất Cao nguyên (Vùng II) đă được Tổng thống Thiệu quyết định và thông báo cho tướng Trưởng ngày 13-3-75 khi ông được TT Thiệu triệu tập về Dinh Độc Lập.

Xin hăy nghe Tướng Trưởng kể lại :

Ngày 13-03-1975, tôi được lệnh vào Sài G̣n họp, tôi vào đến Sài G̣n nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có ḿnh tôi vào gặp Tổng thống và Thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài G̣n họp th́ đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, th́ chỉ có một ḿnh tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ư định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay th́ tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức v́ lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó t́nh h́nh tại Huế, Quảng Ngăi và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề v́ địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi tŕnh bày cặn kẽ những ư kiến cũng như những dự định của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp nhận. Lệnh bất di bất dịch là : “Phải rút Quân đoàn I càng sớm càng hay”.

“... Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng thống Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng I. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và Vùng I ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiên chiến hữu của tôi đă đổ máu để ǵn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đă đổ nhiều.

“Tổng thống Thiệu rung động chấp nhận cho tôi giữ Huế. Sáng 18-3-75, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân đoàn I) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị : Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên thừa lệnh Tổng thống yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. V́ mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đă ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ th́ tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng ôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay : “Ở Huế bây giờ xă ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu t́nh h́nh cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao ?” Tôi buồn bả trả lời : “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được”. Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng. (Xin xem thêm báo Chính Luận, ở Seattle số 139 ra ngày 6-8-99, bài “Tại sao tôi bỏ Quân đoàn I ?
” của tướng Ngô Quang Trưởng)

[...]

Sau những hỏi han về gia đ́nh, con cái, tôi nói với tướng Trưởng là tôi định viết cuốn sách về chiến tranh VN và hy vọng tướng Trưởng sẽ là một trong những nhân chứng sống vào giai đoạn sụp đổ của nền Đệ II Cộng Ḥa. Trong câu chuyện, tôi đề nghị tướng Trưởng nên viết lại hồi kư để giúp cho các nhà sử học sau này có nhiều tư liệu. Tướng Trưởng cho biết là bè bạn đă thúc đẩy ông làm việc này nhưng ông vẫn cứ đắn đo măi v́ sự thật khi phải nói ra sẽ mất ḷng nhiều người. Và giọng ông trầm xuống buồn buồn : “Trong tâm tư sâu thẳm, tôi vẫn cảm thấy ḿnh có tội với Tổ quốc, với người dân khi không bảo vệ được vùng đất mà ḿnh trách nhiệm. Nỗi buồn càng lớn hơn khi ḿnh vượt thoát ra được nước ngoài trong khi biết bao chiến hữu của ḿnh phải vào các nhà tù khổ sai, số khác phải bỏ ḿnh trên đường vượt thoát...” Tôi kính trọng ư nghĩ đầy tinh thần trách nhiệm này của Trung tướng. Tôi tin rằng lịch sử rất công minh khi luận xét công tội của những ai thực sự chịu trách nhiệm trong việc sụp đổ của chế độ Cộng Ḥa tại Miền Nam.

II. Trích từ bài Những nguyên do khiến Miền Nam Việt Nam sụp đổ (Một phần trong cuốn “No more Vietnams” của Richard NIXON) Phan Bá Kỳ dịch, đăng trong Hương Quê – Hội Ái hữu Quảng Trị Nam Cali, Đặc san Xuân Nhâm Ngọ 2002.

[…]

Khi tôi từ chức Tổng thống Hoa Kỳ ngày 9 tháng 8 năm 1974, tôi thấy thực sự lung túng với t́nh h́nh ở Việt Nam. Để đi đến đoạn kết của Hiệp định Paris, tôi đă cứu xét đến hai điều kiện cần được thực-hiện : Chúng ta phải duy tŕ một cuộc trả thù mạnh mẽ đối với Bắc Việt nếu Bắc Việt xâm lược Miền Nam, và chúng ta tiếp tục viện trợ quân sự cho Miền Nam đầy đủ để Miền Nam duy tŕ được sự cân bằng sức mạnh. Cả hai điều kiện này đều bị Quốc Hội t́m cách loại bỏ.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tôi trải qua một cơn ác-mộng v́ biết rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ lợi dụng bản Hiệp định ḥa b́nh để chuẩn bị chiến tranh. Nỗi lo sợ của chúng tôi là Cộng sản Hà Nội sẽ tăng cường trang bị vũ khí cho các lực lượng của chúng hiện đang có mặt ở Lào, Cam Bốt và ngay cả trong nội địa Miền Nam.

Khi tôi từ giả Ṭa Bạch Cung, tôi đă biết là Quốc Hội đă có ư muốn để cho sự việc cứ xẩy ra và sẽ không cho Tổng thống Ford người mới thay tôi xoay chuyển lại t́nh h́nh. Tôi đă thực sự sửng sốt khi thấy đa số ở Quốc Hội đều chống cuộc chiến ở Việt Nam là một xứ sở nhỏ bé lệ thuộc vào Hoa Kỳ để nhờ giúp đở chống lại những cuộc tấn kích thô bạo của Bắc Việt với sự hổ trợ của các lực lượng cộng sản trên thế giới. Những Thượng nghị sĩ và Dân biểu đ̣i hỏi Miền Nam Việt Nam phải tự chiến đấu một ḿnh là một điều bất công phi lư. Không mộ ai mong ước rằng Nam Triều Tiên có đủ khả năng chiến đấu hống lại Bắc Triều Tiên mà không cần sự hiện diện của 50 ngàn quân Mỹ đóng tại Nam Triều Tiên.

Không một ai mong ước rằng những quốc gia ở Tây Âu có đủ khả năng để ngăn chặn Liên-Xô mà không có sự hỗ trợ của 300 ngàn quân sĩ của ta đi kèm với sự đe dọa dùng vũ khí nguyên tử nếu có một cuộc xâm chiến. Không một ai mong ước Do Thái có đủ khả năng đẩy lui quân thù của họ nếu không có sự yểm trợ quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Thế mà Quốc Hội đă không cho phép viện trợ quân sự trả đũa cuộc xâm lăng của Bắc Việt, ngay cả cung cấp đủ số đạn dược cho quân đội Nam Việt Nam cũng không được chấp nhận.

Tôi có thể hiểu Quốc Hội muốn đẩy cuộc chiến Việt Nam vào quên lăng, nhưng tôi không thể hiểu tại sao Quốc Hội có thể nhẫn tâm nh́n Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Dù chủ định của Quốc Hội là ǵ đi nữa, nhưng hành động của họ đă đưa đến hậu quả là mất Miền Nam Việt Nam.

Trong khi tranh luận về viện trợ cho Miền Nam Việt Nam một Nghĩ sĩ đă nói : “Chúng ta giới hạn việc hỗ trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam, tức là chúng ta báo hiệu cho Cộng sản Miền Bắc biết là đă đến thời kỳ thương thuyết”. Hà Nội đă không nghĩ như vậy, trái lại Bộ Chính trị và Bộ Tổng tham mưu Bắc Việt phân tích trong cuộc hội nghị tại Hà Nội tháng 10/1974 là Quốc Hội Hoa Kỳ đang bậc đèn xanh cho quân đội Bắc Việt tiến xuống Miền Nam. Những người lănh đạo Hà Nội nhận xét rằng : “Quân đội Sài G̣n đang yếu dần về quân sự, chính trị và kinh tế”, trong khi lực lượng Hà Nội đang mỗi ngày một mạnh hơn. Họ cho rằng những vị trí chiến lược xây dựng nối liền từ Bắc vào Nam sẽ giúp đỡ tăng cường những lực lượng quân sự và tăng cường các kho quân dụng thành các đoạn đường chiến thuật và chiến lược.

Sự hỗ trợ tuột dốc của Hoa Kỳ khiến cho Cộng sản Hà Nội nghĩ rằng chúng ta “đang gặp khó khăn từ bên trong đến bên ngoài”.

Tướng Văn Tiến Dũng nêu một câu hỏi nóng bỏng nhất là “liệu Hoa Kỳ có khả năng gửi quân trở lại Miền Nam Việt Nam hay không khi những cuộc tấn công lớn của Cộng sản đưa quân đội Sài G̣n tới dần sụp đổ ?”. Ông ta nhận xét rằng “v́ đă kư Hiệp định Paris về Việt Nam và đă bị buộc phải rút quân ra khỏi Miền Nam, Hoa Kỳ đă trở nên bối rối và gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nạn lạm phát, nạn suy thoái, sự thiếu năng lực và vụ Watergate đă làm cho Hoa Kỳ trở thành tàn phế”. Tổng Bí thư đảng Cộng sản Bắc Việt Lê Duẫn đă đưa ra một kết luận : “Một khi đă rút ra, Hoa Kỳ khó có thể nhảy trở vào”. Theo ông ta, Quốc Hội Hoa Kỳ thực sự bỏ Sài G̣n và sẽ chẳng bao giờ tái can thiệp để bảo vệ Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Do đó, Hội đồng Chiến tranh Hà Nội đă quyết định tung những cuộc tấn công chính vào Nam trong năm 1975.

Trong tháng 11 năm 1974, Hà Nội đă gửi một chỉ thị cho các cấp chỉ huy quân sự của họ trong Nam : “khả năng không quân và pháo binh của địch (quân lực VNCH) đă bị giới hạn do kết quả giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ. Địch đang xuống dốc về quân sự và không khôi phục được tiềm lực như thời 1973. Trong khi đó thế lực của chúng ta đang được chấn chỉnh. Chúng ta bây giờ mạnh hơn thời Tổng công kích tổng khởi nghĩa năm 1968 và hơn giai đoạn mùa hè năm 1972. Chúng ta đang có đủ tài chánh, vũ khí và quân cụ để khởi sự một cuộc tấn công vững chắc trên một chiến tuyến rộng”.

Quả thực Cộng sản Bắc Việt đang được Nga-Xô và Trung-Cộng nổ lực tái trang bị vượt quá mức đầy đủ và đang sẵn sàng để tấn kích. Trong năm 1973, trong khi Quốc Hội Hoa Kỳ cắt viện trợ dành cho Miền Nam Việt Nam, những nước đồng minh cộng sản đă viện trợ cho Bắc Việt 2.8 triệu tấn hàng nhập cảng, một số lượng 50% lớn hơn số lượng nhập cảng năm 1972 và 10% lớn hơn số lượng nhập cảng năm 1971. Và trong năm 1974, Cộng sản Bắc Việt nhập cảng một số lượng hàng trên 3.5 triệu tấn. Vào tháng 11/1974, Tổng thống Ford họp với những nhà lănh đạo Xô-Viết ở Vladivostok và với những nhà lănh đạo Trung Hoa tại Bắc kinh về việc hai nước nầy tăng cường viện trợ không ngừng cho Bắc Việt. Lúc đầu khi Hoa Kỳ tuyên bố rơ cho Xô-Viết và Trung-Cộng biết mối giao hảo giữa Hoa Kỳ và hai nước nầy sẽ sứt mẻ nếu họ nầy tăng cường viện trợ cho Bắc Việt, do đó họ đă không giám hăng hái viện trợ, mà đă ra những điều kiện bắt buộc Bắc Việt phải làm theo. Điện Cẩm-Linh và Bắc-kinh cho Bắc Việt biết rằng viện trợ sẽ trở thành vô vọng và vô ích nếu những vũ khí đang được viện trợ bị tàn phá do những cuộc ném bom của Hoa Kỳ.

Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định cắt ngang kế hoạch ném bom Bắc Việt vào tháng 6 năm 1973. Thế là không c̣n lư do ǵ nữa để Xô-Viết và Trung-Cộng ngưng viện tiếp tục trợ. Điện Cẩm-Linh và Bắc-kinh muốn giúp chúng ta ngăn chặn Bắc Việt nhưng chúng ta đă không cương quyết làm điều đó.

Năm 1974, với những tiếp liệu viện trợ Cộng sản Bắc Việt chuẩn bị mở những kế hoạch mới. Một mặt chúng phát triển lực lượng và hệ thống tiếp liệu, một mặt chúng mở những cuộc tấn kích chiến lược để củng cố những vị trí chúng đang chiếm giữ. Đến tháng chạp, Cộng sản đă dàn ra một lực lượng gồm 185 ngàn quân lính để đánh vào những tuyến pḥng thủ mơng của Miền Nam. Dĩ nhiên là Sài G̣n không có đủ những đơn vị chính quy, ngoài ra, khác với t́nh h́nh năm 1972 là lúc nầy quân đội Miền Nam đă mất khả năng lưu động để tái phối trí các lực lượng một cách nhanh chóng, và thiếu sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ thả bom yểm trợ. Tất cả đều do sự cắt giảm ngân sách của Quốc Hội gây ra.

Ngày 13 tháng chạp năm 1974, sau những cuộc tấn kích nghi binh, Cộng sản Bắc Việt khởi sự tấn công tràn ngập tỉnh Phước Long khoảng 50 dặm bắc Sài G̣n. […] Ngày 6 tháng giêng năm 1975, tỉnh Phước Long thất thủ. Đây là tỉnh lỵ đầu tiên bị Cộng sản chiếm kể từ sau 1972.

Khi tin tức đến Hà Nội, những người lănh đạo Bắc Việt mở những cuộc họp liên tiếp về kế hoạch chiến lược. Lê Duẫn chủ trương một cuộc tấn công quân sự mạnh trong ṿng hai năm để đạt toàn thắng. Ông ta quả quyết là Hoa Kỳ đă không tiếp ứng nổi trong những trận đánh vừa qua chứng tỏ là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp ngay cả bằng không lực để Sài G̣n khỏi bị đánh bại. Ông ta kêu gọi “mở một cuộc tấn công rộng lớn trong năm 1975 để tạo điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa giải phóng Miền Nam trong năm 1976”. Đây chỉ là một lực chọn tối thiểu mà ôn ta đưa ra, nhưng nếu, ông ta [nói] thêm “cơ hội thuận tiện đến với chúng ta vào đầu hoặc cuối năm 1975, chúng ta sẽ giải phóng Miền Nam trong năm 1975”. Vào thời kỳ gần áp trận đánh sinh tử, lực lượng Miền Nam đă lâm vào t́nh trạng yếu kém nhất trong ṿng 5 năm qua. Ngân khoản viện trợ quân sự thuộc tài khóa 1975 bị Quốc Hội cắt giảm đă gay nên hậu quả bất lợi ngay trong quân lực VNCH. Ở Miền Nam khẩu phần tiếp tế năm 1974 phải rút xuống để sống c̣n trong năm tới.

Số tiền viện trợ 700 triệu trước nay thực sự đă giảm xuống c̣n 500 triệu bởi v́ Quốc Hội buộc Miền Nam phải trả tiền chuyên chở và nhiều phí tổn khác. Chỉ nguyên nhu cầu đạn dược mà thôi, Miền Nam đă phải can đến 500 triệu đô theo thời giá năm 1974. Lục quân chỉ nhận được 50% số ngân khoản yêu cầu, không quân chừng 30%, nhiên liệu bị rút xuống chỉ c̣n khả năng để vận hành 49% xe cộ. Trên 200 máy bay đủ loại phải để yên trong nhà chứa. Bất cứ một cuộc di chuyển nhỏ nào của bộ binh đều phải có phép của Tư lệnh quân đoàn.

Lời cam kết của Hoa Kỳ về việc thay thế một đổi một, tất cả những quân dụng bị hư hỏng, hoặc hủy hoại trong thời gian ngưng bắn đă bay ra ngoài cửa sổ !.

Vào tháng 6 năm 1974, Miền Nam mất 58 tàu hải quân đă không nhận được chiếc nào; mất 282 phi cơ đủ loại, chỉ nhận lại được 8 chiếc cessna 0-1 loại quan sát ! Ngoài ra Miền Nam chỉ nhận được 33% các cơ phận thay thế. Trên 4000 xe hơi và máy bay đủ loại nằm ụ chờ sửa chữa. T́nh trạng này đă gây thiệt hại nghiêm trọng cho không yểm của không lực Miền Nam. […] súng bộ binh bị hạn chế sử dụng v́ thiếu đạn. Những vị tư lệnh ngoài mặt trận đă phải lạy lục xin tiếp tế thêm đạn.

[… (sức hoạt động của pháo binh cũng bị sút giảm nghiêm trọng tương tự – người trích) …] T́nh trạng nầy đă tạo nên một khủng hoảng lớn. Ngay cả nếu nhịp độ chiến đấu ở vào mức như cuối năm 1974, Miền Nam Việt Nam cũng cạn heat đạn dược vào tháng 5/1975, không c̣n ǵ để tiếp tục chiến đấu. Phẩm chất và khả năng chữa trị chi binh sĩ bị thong đă xuống mức tồi tệ. Binh sĩ bị thong không c̣n hy vọng được trực thăng bốc về hậu cứ. Y dược tồn kho đă khô cạn đến mức phải hạn chế chặt chẽ việc sử dụng, đến nỗi phải giặt những vải băng bó, những găng cao su, luộc lại ống chích để sử dụng lại.

[…] Tổng thống Ford, người kế vị tôi đă khẩn thiết xin Quốc Hội một ngân khoản tăng viện 300 triệu đô la cho Miền Nam và 222 triệu đô la cho Cam Bốt để hai quốc gia này có thể tồn tại. Quốc Hội chưa có quyết định. Những người lănh đạo Hà Nội đă không bỏ sót những sự việc đang xẩy ra ở Miền Nam, và họ không ngờ là Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ giúp họ thắng lợi bằng cách không chấp nhận lời khẩn cầu của Tổng thống Ford.

Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đă việt trong cuốn hồi kư của ông “Nguyễn Văn Thiệu đang kêu gọi binh sĩ Miền Nam hăy chiến đấu một cuộc chiến của nhà nghèo …” […] Sau trận thắng ở Phước Long, Hà Nội ra lệnh mở cuộc tấn công Ban Mê Thuột, thị xă tỉnh Darlac trên cao nguyên Trung phần. Ngày 10 tháng 3/1975, ba sư đoàn Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm thị xă. […]

Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, quân Cộng sản tiến xuống Sài G̣n theo lộ tŕnh phía tây. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă đích thân đến Cam Ranh để mở một cuộc họp với các chiến lược gia vào ngày 14 tháng 3, ông đă thấy t́nh thế bi quan, v́ ông được biết ngày 12 tháng 3 Hạ Viện Hoa Kỳ đă bỏ 18 phiếu trên 49 phiếu chống viện trợ 300 triệu cho Việt Nam, và ngày hôm sau, Thượng Viện đă xác định phán quyết này với số phiếu 38 trên 5. […] Tổng thống Thiệu bây giờ nhận ra một sự thật đau đớn là quân lực VNCH không thể nào đủ sức để pḥng thủ toàn cơi Miền Nam. Ông chỉ thị cho các tư lệnh thi hành chiến lược “nhẹ trên đỉnh, nặng dưới đáy”. Ông ta cắt nghĩa rằng chính phủ sẽ rút các lực lượng từ các tỉnh miền Trung và các tỉnh phía Bắc về pḥng thủ khu vực Sài G̣n và vùng châu thổ Mêkông, nơi có nhiều dân chúng sinh sống. Đây là một lá bài tuyệt vọng […] Tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho thi hành giai đoạn đầu của chiến lược : bỏ cao nguyên Trung phần. […]

Chiến lược rút lui của ông Thiệu dễ ban hành nhưng không dễ thực hiện. […] Ngày 15 tháng 3, khi quân đội chuẩn bị rút đi, thị xă Pleiku và Kontum đă trở thnh rối loạn, không một ai muốn bị bỏ lại đằng sau (nhất là gia đ́nh, bà con binh sĩ). [… (bị địch quân chận đánh) …] lực lượng rút lui đă bị cắt ra làm đôi, và quân dân đă chết như rạ, xác chết ngổn ngang trên khắp thị xă. Số binh sĩ c̣n sống tiếp tục tiến xuống duyên hải, mười tám tiểu đoàn khi xuất phát bây giờ chi c̣n lại ba.

Sau thảm họa nầy, Tổng thống Thiệu không c̣n ǵ để lưỡng lự nữa, ông ra lệnh đưa những đơn vị thiện chiến nhất của QLVNCH (nhảy dù và thủy quân lục chiến hiện đang tăng cường cho vùng I) về pḥng thủ Sài G̣n. Ông cũng ra lệnh điều động các đơn vị cơ hữu vùng I thu hẹp lại pḥn thủ Huế và Đà Nẵng. […] Ngày 11 tháng 3, thiết giáp xa cộng sản vượt qua vĩ tuyến 17 và tỉnh Quảng Trị đă bỏ ngơ. Hằng ngàn dân tị nạn bỏ chạy vào Huế rồi tiếp tục di tản vào Đà Nẵng.

Khi các tuyến pḥng thủ vở, “con bệnh gia đ́nh” trong quân ngũ phát sinh. […] Khi binh sĩ di chuyển, họ phải mang gia đ́nh theo hoặc bỏ đơn vị mang gia đ́nh chạy trốn đến nơi an toàn. Thế là t́nh trạng náo loạn vở ra, ba sư đoàn cơ hữu của vùng I bỗng chốt tan tành như mây khói. Ngày 25 tháng 5, Huế rơi vài tay Cộng sản, […] Ngày 30 tháng 3, Đà Nẵng nơi quân đội Hoa Kỳ đă đổ bộ cách đó đúng 10 năm, đă hoàn toàn lọt vào tay quân Bắc Việt.

Trong ṿng chưa đầy một tháng, quân lực Miền Nam đă để mất một nửa lănh thổ nhưng đó không phải là hoàn toàn do họ. Chiến lược rút quân phía Bắc để đưa quân vào pḥng thủ phía Nam là một sai lầm nghiêm trọng. […] Kế hoạch rút lui của ông Thiệu đă đem lại kết quả là ông chỉ c̣n một nắm đơn vị về tới Sài G̣n.

T́nh h́nh Miền Nam đă vậy mà t́nh h́nh của nước láng giềng Cam Bốt, cũng dang ở vào những giờ phút hấp hối. […]

Ngày 9 tháng 4 trận đánh quyết định cuối cùng ủa cuộc chiến Việt Nam đă khởi sự tại Xuân Lộc. […] Ngày 10 tháng 4, trong khi quân Bắc Việt tấn công khắp nơi trên toàn cơi Miền Nam, tại Mỹ Tổng thống Ford đă đến thuyết tŕnh trước Quốc Hội Lưỡng Viện để yêu cù viện trợ khẩn cấp cho các nước bạn đồng minh Việt Nam, Cam Bốt và Ai Lao. Ông chỉ xin Quốc Hội 722 triệu viện trợ quân sự và 250 triệu viện trợ kinh tế và nhân đạo. Trước t́nh thế khẩn trương, Tổng thống Ford đă xin Quốc Hội đáp ứng lời yêu cầu của ông trước ngày 19 tháng 4. Đây là một việc làm đầy can đảm của Tổng thống Ford trên phương diện chính trị, v́ ông biết rơ rằng ông sẽ mất hết mọi sự ủng hộ của các nghi viên bạn khi ông ngơ lời xin viện trợ cho chính phủ Sài G̣n. […] nhưng lời yêu cầu của Tổng thống Ford không có được một phiếu biểu quyết, nó đă chết ngay khi c̣n ở cấp tiểu ban. […]

Sau khi Xuân Lộc thất thủ, quân Miền Nam không c̣n bao nhiêu người để ngăn chận Cộng sản tiến về Sài G̣n. […] Rơ ràng là cuộc chiến Đông Dương đang đến giờ phút chót.

Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu từ chức với hy vọng người kế vị có thể cứu Sài G̣n khỏi bị tàn phá (hay tàn sát ? - người trích) trong trận đánh cuối cùng. Người kế vị ông là Dương Văn Minh (nhậm chức ngày 28-4-75) chủ trương mở những cuộc điều đ́nh với quân địch. Đó là giải pháp vô vọng. Sài G̣n không c̣n ǵ để đem ra mặc cả với địch. Hà Nội nh́n thấy sự chiến thắng trước mắt, không thèm quan tâm đến đàm phán, chỉ muốn chinh phục.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lực lượng quân đội Miền Nam hoàn toàn suy sụp tinh thần, thiết giáp Bắc Việt lăn bánh vào các đường phố Sài G̣n. Vào thời điểm nầy, kháng cự lại quân đội Hà Nội là việc làm vô ích. […]

Khi chúng ta bỏ Miền Nam Việt Nam, toàn cơi Đông Dương cũng bị bỏ, số phận của các dân tộc nầy đă rơi vào t́nh trạng khắc nghiệp. Trước khi Đại sứ Hoa Kỳ ở Cam Bốt John Gunther Dean sắp sửa ra đi, ông đă viết một bức thư cho ông Sirik Matak cựu Thủ tướng Cam Bốt bày tỏ ư muốn đưa ông Thủ tướng đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ.

Vị cựu Thủ tướng đă phúc đáp :

Kính thưa Ngài Đại sứ và cũng là người bạn

Tôi xin chân thành cám ơn Ngài về lá thư và ḷng tốt của Ngài muốn dành cho tôi phương tiện để đến xứ sở tự do. Nhưng than ôi, tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như vậy. Đối với Ngài và nhất là đối với xứ sở vĩ đại của Ngài, tôi đă chẳng bao giờ tin rằng quư Ngài có thể nhẫn tâm bỏ dân tộc của chúng tôi, một dân tộc chỉ muốn được tự do. Quư Ngài đă từ chối không bảo vệ dân tộc chúng tôi, chúng tôi không thể làm ǵ khác được.

Trước khi Ngài ra đi, tôi xin cầu chúc Ngài và dân tộc Ngài được luôn luôn hạnh phúc dưới bầu trời. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ngay trên mănh đất mà tôi hằng yêu quư nầy, th́ đó quả thật quá tồi tệ, dù rằng ai được sinh ra rồi cũng có ngày chết. Chúng tôi đă làm một lỗi lầm lớn là đă quá tin tưởng ở quư Ngài.
 

Kính 
Sisowath Sirik Matak 

Đây là một quyết định cao thượng và thích hợp, cho dân tộc, xứ sở của ông và cho chính ông. Ông là người đầu tiên bị quân Khmer Đỏ đem ra pháp trường xử tử một cách dă man.

Cộng sản đă đem lại sự yên tĩnh tại Miền Nam Việt Nam và các nước láng giềng, nhưng đó là một sự yên tĩnh của nghĩa trang.

III. Trích từ cuốn Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ – theo các chứng liệu về chiến tranh Việt Nam của cựu Đại Sứ Mỹ Ellworth Bunker, của Stephen B. YOUNG, Việt dịch của Nguyễn Mạnh Hùng, Thời Luận xuất bản, Hoa Kỳ tháng 9-2001.

- Trang 481 : Người bạn cố tri của ba tôi (ba của Stephen B. YOUNG). Richard Neustadt, đă cất lời, việc can dự của Hoa Kỳ nhằm giúp ho Miền Nam Việt Nam quyền tự quyết, là một lầm lỡ. Neustadt từng là cố vấn của Tổng thống Truman, và qua cuốn sách nổi tiếng, Presidential Power, ông đă được John Kennedy đánh giá là phần tử ưu tú nhất và mời bào Bộ Tham mưu. Neustadt luôn nghĩ rằng, Việt Nam phải nằm trong quĩ đạo để phục vụ mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ.

- Trang 479 : Kissinger c̣n nghĩ rằng sự phân chia hai miền Nam và Bắc Việt Nam trên căn bản pháp lư là điều “không thực tế”.

- Trang 497 : [Khi soạn thảo bản Hiệp định Paris] Trong điều XV nhằm tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của các nước Đông Dương, trong dự thảo ngày 15 tháng 9-1972 Kissinger xác định rơ là 4 nước : Miền Nam, Miền Bắc Việt Nam, Lào và Cam Bốt, nhưng dự thảo chung cuộc th́ chỉ nói Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Điều đó có nghĩa là Hà Nội vẫn có thể can dự vào Miền Nam Việt Nam mà được xem như không vi phạm bởi bất cứ ràng buộc nào.

Muốn biết chi tiết về nhân vật Kissinger, trong các vụ việc liên hệ đến Việt Nam, và chi tiết về nỗi khó khăn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong bang giao Việt-Mỹ, nhất là vào thời thong thuyết Hiệp định Paris, nên đọc trọn quyển Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ.

IV. Trích từ bài Gặp cố vấn Tổng thống của chế độ ngụy Sài G̣n – Vũ Ngọc Nhạ, của nhà văn Minh Chuyên, trên tờ An Ninh Thế Giới (trong nước), số ra ngày thứ năm 25-4-2002.

[…]

- Từ một Thị ủy viên, một anh bộ đội thuộc tỉnh Thái B́nh, chỉ ít năm sau, người ta đă thấy ngày ngày ông ra vào Phủ Tổng thống của chế độ ngụy quyền Sài G̣n ?

- Đó là bước ngoặt đầu tiên của tôi. Tôi cũng không nghĩ là ḿnh lại lọt vô làm việc ở cơ quan đầu năo này! – Vũ Ngọc Nhạ bồi hồi nhớ lại rồi nói tiếp – Năm 1952, quân đội Pháp thua trận, người Mỹ âm mưu xâm chiếm miền Nam Việt Nam thay Pháp. Tôi được đi dự hội nghị chiến tranh du kích Bắc bộ tại Việt Bắc. Tại hội nghị này, biết tôi có ít nhiều kinh nghiệm làm công tác địch vận ở vùng tạm chiếm Thái B́nh, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chủ tịch đă gặp và trực tiếp giao nhiệm vụ cho tôi. Bác dặn : “Nhiệm vụ của chú là vào Nam t́m cách nắm bằng được Mỹ-Ngụy đă làm ǵ, chúng đang làm ǵ và sẽ làm ǵ…”

Năm 1954, ḥa b́nh lập lại, với tờ căn cước hợp pháp, trút bỏ trang phục anh bộ đội Cụ Hồ, Vũ Ngọc Nhạ “đóng vai” một sĩ quan ngụy. Ông đưa vợ con từ làng Cối Khê, xă Vũ Hội, Vũ Tiên, Thái B́nh theo quân đội Pháp xuống tàu ở Hải Pḥng di cư vào Nam. Ông t́m cách “bọc ḿnh” thật kín và âm thầm làm nhiệm vụ. Cuộc chiến đấu thầm lặng, đầy mạo hiểm bắt đầu từ đây.

Vũ Ngọc Nhạ nói : “Ngày đầu vào Sài G̣n, một lần đi qua Dinh Độc Lập đứng ở ngoài nh́n, tôi thầm ao ước một ngày nào đó ḿnh sẽ lọt được vô đây. Nhưng ảo tưởng ấy xa vời lắm. Chưa dám mơ ngày đó, tôi bị mật vụ Sài G̣n do Dương Văn Hiếu bắt cóc rồi đưa ra biệt giam tại Ṭa Khâm sứ ở Huế”.

- Là tù Cộng sản, bằng cách nào ông né được để họ phải trọng vọng đón ông từ nhà tù Huế về Dinh Độc Lập – Sài G̣n, làm cố vấn cho Ngô Đ́nh Nhu và đương kim Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ?

- Từ cái “vỏ bọc” của tổ chức cho tôi. Gia đ́nh tôi đóng vai một gia đ́nh giáo dân di cư vào Nam. Dựa vào ảnh hưởng của đức cha Lê [Hữu Từ], cha Hoàng [Quỳnh] ở nhà thờ B́nh An và Phát Diệm mà tôi đă có dịp quen biết. Chế độ Ngô Đ́nh Diệm rất cần sự ủng hộ của các linh mục này; là các linh mục có “tinh thần” chống Cộng rất quyết liệt. Tôi đă thể hiện ḿnh là cái cầu nối cho họ đến với nhau. Từ đó dần dần tôi chiếm được ḷng tin của Ngô Đ́nh Cẩn – Cố vấn miền Trung. Cẩn “bắt cầu” cho tôi sang cha Thục, ông Nhu và Ngô Đ́nh Diệm.

Là phụ tá của đức cha Lê [Hữu Từ], cố vấn cho gia đ́nh Ngô Tổng thống, tôi có điều kiện tiếp cận với các viên chức cao cấp trong chính phủ ngụy quyền, với Ṭa thánh Vaticăng, Giáo chủ Pie XI, Khâm sứ Ṭa thánh tại Sài G̣n, đức Hồng y Xpenman Mỹ… Qua đây tôi nắm được khá nhiều tin tức quan trọng của Mỹ và ngụy để cung cấp về trung tâm của ta.

- Là người Cộng sản nằm trong Phủ Tổng thống, có lúc nào ông bị nghi ngờ ?

- Bọn mật vụ thường xuyên theo dơi. Tôi luôn biến nghi ngờ thành đức tin để “bọc ḿnh” và thoát hiểm.

Anh em Ngô Tổng thống coi tôi như ruột thịt. Một hôm họp gia đ́nh có đủ Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Nhu, Lệ Xuân, Ngô Đ́nh Cẩn và tôi, Ngô Đ́nh Diệm tự đặt biệt danh 5 con rồng cho 5 anh em. Ông bảo : “Từ nay Ngô Đ́nh Thục là Hồng Long, Ngô Đ́nh Diệm là Bạch Long, chú Nhu là Thanh Long, chú Cẩn là Hắc Long, thầy Hai (tức Vũ Ngọc Nhạ) là Hoàng Long. Đă là anh em trong nhà, thầy Hai không cần phải ư tứ ǵ”. Anh em Ngô Đ́nh Diệm càng tin tôi, quí tôi, bọn CIA và bọn mật vụ càng “để mắt” đến tôi.

- Lệ Xuân, vợ Ngô Đ́nh Nhu thỉnh thoảng cũng “quan tâm” đến ông phải không?

- Lệ Xuân là một người đàn bà có sắc, có tài hiếu thắng và kiêu kỳ. Ông Nhu nhiều hơn Lệ Xuân hàng chục tuổi. Ông ta làm việc căng thẳng, luôn vắt óc đối phó t́nh h́nh, ít quan tâm đến t́nh cảm của Lệ Xuân. Có lần Lệ Xuân đến “gần tôi”, tôi sang nói với ông Nhu. Ông Nhu bảo “quyền của bà ấy tôi không can thiệp”. Có người bảo tôi rằng, bà ấy thử. Người th́ bảo, bà ấy thật đấy. Chỉ có bà ấy mới biết chính xác.

Một lần tôi cùng Ngô Đ́nh Nhu và Lệ Xuân lên Đà Lạt, Lệ Xuân mời tôi sang pḥng riêng làm việc. Tôi bước vào pḥng, Ngô Đ́nh Nhu đang ngủ say. Bà ấy rót nước mời tôi và ngồi nh́n tôi rất lạ. Lát sau, Lệ Xuân hỏi :

"- Anh là Cộng sản à ?

- Sao bà nghĩ vậy ?

- Anh không cần tiền, không cần t́nh, chỉ có Cộng sản mới thế.

- Tôi cũng từng là Cộng sản. Nhưng tôi đă “từ bỏ” Cộng sản lâu rồi.

Lệ Xuân lắc đầu :

- Tôi thấy anh lạ thật. Làm việc cho Chính phủ mà không nhận phụ cấp. Gia đ́nh anh th́ nghèo xác. Sáng nào trước khi vào Phủ Tổng thống anh chả đèo rau ra chợ cho bà vợ anh bán, tôi biết chứ.

Tôi im lặng, Lệ Xuân tiếp :

- Nếu anh bằng ḷng, tôi chỉ nói một lời, cả nhà anh sẽ sung sướng.

- Cám ơn bà, gia đ́nh tôi sống như hiện nay là ổn lắm rồi."

- Làm cố vấn cho gia đ́nh Ngô Tổng thống, khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ, bằng cách nào ông lại sang làm cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ?

- Làm cố vấn cho Diệm, tôi có điều kiện tiếp xúc với người Mỹ. Biết được người Mỹ có ư định chọn đối tượng lên thay Diệm. Tướng Thiệu là một trong những người lọt trong mắt họ. Nguyễn Văn Thiệu, một giáo dân ngoan đạo, các cha cố, linh mục nhiều người có cảm t́nh với Thiệu. Khi ấy tôi được ủy quyền đại diện cho khối Công giáo tổ chức vận động ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống. Cuộc vận động thành công. Thiệu tha thiết mời tôi vào Dinh Độc Lập làm cố vấn đặc biệt cho ông ta.

- Được biết Nguyễn Văn Thiệu cũng rất tin ông và coi ông như một chiến hữu “tử v́ đạo” ?

- Công việc của tôi cần có sự quan hệ như thế. Tôi c̣n nhớ sau ngày Nguyễn Văn Thiệu nhậm chức Tổng thống, ông ta sang pḥng làm việc của tôi và bảo : “Thầy Hai dàn xếp cùng người Mỹ “đưa tôi” lên làm Tổng thống, tôi rất biết ơn thầy. Nhưng khi thầy muốn hạ tôi xuống, thầy phải “xinhan” trước cho tôi xuống nghe, đừng để tôi phải chết nhục như anh em Ngô Đ́nh Diệm”.

- Đó là điều kiện tuyệt vời để ông “rút ruột” ông Thiệu ?

- Không chỉ ông Thiệu – Vũ Ngọc Nhạ tiếp – Người Mỹ cũng cần tôi, v́ tôi là cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu, qua tôi để thăm ḍ ông Thiệu. Và ông Thiệu cũng dựa vào tôi để biết “ư tứ” người Mỹ. Tôi có điều kiện nắm bắt t́nh h́nh cả hai bên.

- Anh em trong lưới t́nh báo của ông ngày đó nằm trong Dinh Tổng thống được “sắp xếp” thế nào ?

- Lọt vào làm việc nắm “quyền hành“ trong Dinh Độc Lập là một nghệ thuật cực kỳ nguy hiểm. Việc này do tổ chức và tôi đă “thiết kế” để từng anh em “chui thật sâu” vào trong ḷng địch, nắm địch.

- Họ giữ những trọng trách ǵ ? Nay c̣n ai không ?

- Huỳnh Văn Trọng làm cố vấn ngoại giao Phủ Tổng thống. Vũ Xuân Ḥe là ủy viên Văn pḥng Tổng thống. Lê Hữu Thúy, ủy viên phụ tá Thông tin chiêu hồi. Và ông Vũ Hữu Duật đây – ông Nhạ chỉ tay về phía bên trái chiếc ghế của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (vẫn c̣n lưu giữ ở Dinh Độc Lập làm kỷ niệm – người trích). Năm 1954, khi đồng chí Mười Hương đề cử về Thái B́nh lấy tôi và ông Duật đi làm nhiệm vụ đặc biệt, lúc ấy ông Vũ Hữu Duật là Thị ủy viên, Trưởng ban Tuyên giáo Thị ủy Thái B́nh. Thời Ngô Đ́nh Diệm, ông Duật được ta “cài vào” làm việc tại Tổng nha Cảnh sát ngụy. Thời Nguyễn Văn Thiệu, ông Duật là ủy viên tuyên huấn trung ương lực lượng tự do và làm phó tổng thư kư thường trực đảng Liên minh Dân chủ (đảng cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu). Nay cả lưới chỉ c̣n hai chúng tôi. Gia đ́nh tôi và gia đ́nh ông Duật vừa đi thắp hương cho đồng đội của ḿnh.

Trong lúc Nguyễn Văn Thiệu tin dùng Vũ Ngọc Nhạ, hai người như bóng với h́nh. Ngược lại, Cục T́nh báo CIA Mỹ lại luôn ngờ vực ông. Cuộc chiến đấu thầm lặng trong cạm bẩy và những thử thách nghiệt ngă luôn luôn đối mặt từng ngày. Làm thế nào để giữ ḿnh, hoạt động có hiệu quả, vừa bảo đảm an toàn cho toàn lưới A22. Chỉ cần sơ sẩy một tí là nguy hiểm ập đến, là đổ vỡ hoàn toàn. Vũ Ngọc Nhạ luôn phải vắt óc, trăn trở nghĩ suy. Chợt nhớ lại, có một t́nh huống xảy ra ở pḥng Tổng thống cách đây 30 năm, Vũ Ngọc Nhạ kể :

- Hôm ấy tại cái pḥng này, Nguyễn Văn Thiệu tiếp một số quan chức cao cấp của chính quyền Sài G̣n và quan chức người nước ngoài tới làm việc. Tôi có mặt với tư cách cố vấn của Tổng thống Thiệu. Ngồi cạnh tôi là ông Raymond de Jeagher (*) – cố vấn của Tổng thống Mỹ Nixon. Ông ta nh́n tôi rất lâu, rồi đột nhiên hỏi : “Ông không phải là người Việt Nam ?”.

Tôi giật ḿnh, cố tĩnh tâm để không thay đổi sắc mặt, nhưng mồ hôi toát ra. Tại sao ông ta lại bảo ḿnh không phải là người Việt Nam. Hay ông ta nghĩ người Việt Nam tức là Việt Nam Cộng ḥa. Có nghĩa là ông ta bảo ḿnh là Việt Cộng. Hay là ḿnh bị lộ ? Tôi chợt nhớ ra Jeagher là người Mỹ gốc Bỉ nhập quốc tịch Mỹ và từng có thời làm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch. Tôi liền buông một câu thăm ḍ : “Ông không phải là người Mỹ ?”.

Tôi không ngờ ḿnh đă phóng mũi tên trúng địch. Ông Raymond de Jeagher đứng phắt dậy ch́a tay bắt tay tôi, nói nhỏ : “Ông không phải người Việt Nam. Tôi không phải người Mỹ. Đúng vậy. Nhưng ông đang làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam. Tôi đang làm cố vấn cho Chính phủ Mỹ. Chúng ta sẽ hợp tác chặt chẽ với nhau nghe”.

Từ đó tôi và Jeagher thường xuyên trao đổi tin tức cho nhau. Tôi đă khai thác được nhiều được nhiều điều bổ ích của ông cố vấn mắt xanh này phục vụ cho công việc của ḿnh.

- Đầu năm 1969, theo chỉ thị của cấp trên, ông đă dự định “thiết lập” một Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa gồm hầu hết là những người trong lưới t́nh báo vào các vị trí quan trọng trong Chính phủ ?

- Đó là cơ hội tôi đă làm. Danh sách các thành viên Chính phủ đă được Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt để tŕnh Quốc hội. Trong đó Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục giữ chức Tổng thống. Huỳnh Văn Trọng (người của ta) dự định là Thủ tướng Chính phủ. Vũ Hữu Duật làm Bộ trưởng phụ trách chính trị. Vũ Xuân Ḥe (người của ta) làm Bộ trưởng Kinh tế. Lê Hữu Thúy (người của ta) làm Bộ trưởng Thông tin chiêu hồi … Ông Lê Hữu Thúy, khi đương chức phụ tá Thông tin chiêu hồi của Nguyễn Văn Thiệu, là một trong những chiến sĩ t́nh báo trong lưới của tôi lập công đặc biệt xuất sắc. Năm 2000 vừa qua, Lê Hữu Thúy được đảng, Nhà nước và Quân đội tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- V́ sao các chiến sĩ t́nh báo của ta nằm trong danh sách nội các mới của Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa không thành ?

- Bọn CIA và mật vụ nghi chúng tôi “thao túng” Dinh Độc Lập, nên đă theo dơi sát sao và giăng bẩy khắp nơi. Chúng đă gặp Nguyễn Văn Thiệu và cảnh báo ông ta rằng : một lưới t́nh báo Bắc Việt trong Dinh Tổng thống đang ngầm phá Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa. Cầm đầu lưới này là Vũ Ngọc Nhạ, người mà ông tin cẩn nhất. Trước đó tôi đă nói điều đó với ông Thiệu.

- Ông Thiệu nghĩ ǵ khi Mỹ tố cáo ông là “gián điệp” Bắc Việt ?

- Lúc đầu ông Thiệu cho rằng Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Duật có thể là gián điệp. Ông ta không tin người Mỹ cho tôi là Cộng sản nằm vùng và bảo đây chỉ là mưu đồ người Mỹ muốn hạ uy tín của ông. Nhưng sau đó người Mỹ tới Dinh Độc Lập dùng áp lực dọa Nguyễn Văn Thiệu. Họ nói : nếu ông không kư lệnh bắt Vũ Ngọc Nhạ, ông sẽ mất chức Tổng thống.

Thế là ngày 16-7-1969, cả lưới của tôi sa vào tay địch. Bọn mật vụ thuộc Tổng nha Cảnh sát ngụy và bọn CIA trút mọi cực h́nh đánh đập, tra khảo chúng tôi suốt 3 tháng trước khi đưa chúng tôi ra ṭa xét xử. Sau vụ án, chúng đưa các ông Vũ Xuân Ḥe, Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Duật ra đày ngoài Côn Đảo. Tôi và Huỳnh Văn Trọng bị chúng giam tại Sài G̣n đến đầu năm 1970 mới bị đưa ra Côn Đảo.

- Làm thế nào từ Côn Đảo ông lại về Sài G̣n rồi lại vào Dinh Độc Lập tiếp tục hoạt động ?

- Tôi không nghĩ ḿnh bị bắt là hết, mà mỗi lần bị bắt lại phải nghĩ cách t́m cho ḿnh một con đường mới, bọc ḿnh một lớp vỏ mới. Ở Côn Đảo, cả lưới của chúng tôi bị giam chung một biệt khu, nên anh em bàn nhau rất kỹ về “đường đi nước bước” sau đó. Chúng tôi nhận ḿnh là lực lượng thứ ba, có cơ hội sẽ hợp thức hóa để hoạt động. Khi Hiệp định Pari được thi hành, năm 1973, tôi và Huỳnh Văn Trọng được trao trả tại Lộc Ninh. Cha Hoàng [Quỳnh] cùng một số linh mục ở B́nh An và khối Công giáo Phát Diệm đă móc nối đón tôi vào Sài G̣n.

- Bị bắt v́ tội là Cộng sản làm gián điệp, các cha đạo vẫn tin ông ?

- Họ nghi tôi bị oan và cho tôi là một con chiên ngoan đạo đă hết ḷng v́ Chúa, v́ ḥa b́nh. Theo chỉ đạo của trung tâm, đầu năm 1974 tôi trở lại Sài G̣n với tư cách là người của lực lượng thứ ba.

- Tổ chức của ta dự định ông sẽ tham gia trong Chính phủ ba thành phần ?

- Nhưng Chính phủ ba thành phần đă không ra đời, v́ t́nh h́nh phát triển theo một xu thế khác. Tôi được giao nhiệm vụ củng cố, h́nh thành lưới t́nh báo mới, xây dựng lực lượng thứ ba, đưa người của Cách mạng vào nội thành chuẩn bị cho ngày toàn thắng.

- Ông đă chứng kiến sự tan ră, sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng ḥa và ông Thiệu ?

- Theo chỉ thị của trên, tôi đă dựa vào các linh mục có uy tín trong khối Công giáo để ép Nguyễn Văn Thiệu từ chức và góp phần “dàn xếp” cho Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống thay Thiệu.

- Rời ghế Tổng thống, ra khỏi Dinh Độc Lập, Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ với ông ?

- Những phút sống hoảng loạn cuối cùng ở Sài G̣n, Nguyễn Văn Thiệu có gọi điện cho tôi. Từ đầu dây, ông ta nói : 

- Thầy Hai góp ư cho tôi, lúc này tôi nên xử sự thế nào ?

- Ông nên đi khỏi Sài G̣n.

- Đi đâu ?

Tôi phân tích t́nh h́nh, khẳng định thế tất thắng của Cách mạng Việt Nam và chính sách ḥa hợp dân tộc, rồi khuyên Nguyễn Văn Thiệu :

- Đi đâu là tùy ông, nhưng ông nên trừ nước Mỹ.

- V́ sao tôi không đi nước Mỹ ?

- Sang Mỹ, họ sẽ giết ông.

Theo góp ư của tôi, Nguyễn Văn Thiệu đưa vợ con đi Hồng Công, rồi sang cư trú tại Anh. Cuối năm 2001, ông Thiệu mới qua đời.

(*) Trên Nhật-báo Tự-Do số 952, ra ngày 29-2-1960, trong bài Một học-giả Trung-Quốc với vấn-đề đính-chính sử-liệu Việt-Nam, do ông Quang Triết dịch ra Việt văn từ bài viết bằng Hoa văn đăng trong Trung ương nhật báo, xuất-bản tại Đài Loan ngày 26-1-1960, để cống hiến độc giả Việt Nam, nơi phần giới thiệu tác giả Tưởng Quân Chương, chúng ta đọc được : “học-giả Tưởng-Quân-Chương là một giáo-sư, sử-gia ở Đài-Loan ; năm trứớc được Linh mục Raymond de Jeagher - Giám-đốc Hiệp-hội Tự-do Thái-b́nh-dương tại Việt-Nam, Cố-vấn đặc-biệt của Tổng-thống Ngô-đ́nh-Diệm về Hoa-kiều-vụ - mời qua Sài-G̣n để biên soạn sách giáo-khoa Hoa-văn về môn sử-kư, địa-lư và công dân giáo-dục”. Chúng tôi xin ghi lại đây (và nhận mạnh) để đọc giả biết thêm về nhân vật Raymond de Jeagher.