TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM

 

 

            Người Lính TQLC

                                   NguyÍn  Xuân Phúc

        

 

Quốc Gia hưng vong

thất phu hữu trách

 (Tục ngữ)

          Ngọc Thủy

 

Từ khi c̣n cắp sách dưới mái trường Nguyễn Trăi ở Hà Nội, cậu học tṛ Nguyễn Xuân Phúc đă sớm hiểu được những sự đau thương và kinh hoàng của cuộc chiến tranh đang diễn ra càng lúc càng khốc liệt vào những thời điểm sôi bỏng (1945-1954). Sống và lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ḷng ai không khỏi sục sôi trước những chủ tâm cai trị của ngoại bang. Hơn nữa, sự tranh đấu, hy sinh, ái quốc của các nhà chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.v.v... là tấm gương sáng chiếu rọi vào tâm hồn, nuôi dưỡng thêm những hoài băo, khát khao ḷng yêu nước của các thanh niên thời đại ấy.

 Những ngày khói lửa trong giai đoạn chiến tranh bấy giờ kéo dài cho đến khi Hiệp định Genève được kư kết (ngày 20 tháng 7 năm 1954), chia đôi đất nước hai miền Nam & Bắc, tách rời từ đấy.

 Theo làn sóng hằng triệu người yêu chuộng Tự Do, trong đó có gia đ́nh cậu học tṛ Nguyễn Xuân Phúc đă quyết định rời bỏ tất cả cơ ngơi, ngược gịng vĩ tuyến 17 để vào Nam.

 Lúc đó không c̣n là chiến tranh với ngoại xâm nữa mà là cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc với hai chủ thể Quốc Gia và Cộng Sản. Trong khi miền Nam với chính thể Việt Nam Cộng Ḥa đang cố gắng kiến tạo đời sống người dân được ấm no thịnh vượng, nử lực xây dựng đất nước tới chử phát triển phú cường th́ cộng sản Bắc Việt xiết chặt đời sống dân chúng trong sự kềm kẹp hà khắc, lén lút vi phạm hiệp định, bất chấp đời sống an dân bằng những thủ đoạn dă tâm và đê hèn với mục tiêu xâm chiếm luôn lănh thổ miền Nam. Trước những âm mưu tiếp tục bạo ngược, cố t́nh gây cảnh tang thương cho dân lành vô tội, khiến núi sông cũng phải chuyển ḿnh đau lên tiếng giục. Lớp lớp người trai đă nối bước lên đường theo tiếng gọi non sông. Bút nghiên đành gác lại hẹn ngày về khi đất nước yên vui, bởi quân tham tàn c̣n nhiễu nhương bờ cơi, chí làm trai sao có thể lặng im.

 Dù thân phụ đang là công chức cao cấp, lại là học sinh khá với những năm cuối trung học Chu Văn An, có đủ điều kiện đi du học hoặc tiếp tục việc học hành lên cao. Nhưng với hoài băo lư tưởng ấp ủ từ lâu, Nguyễn Xuân Phúc đă cùng với người em trai kế là Nguyễn Phú Thọ quyết định ghi danh vào trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam để thỏa chí tang bồng, đáp đền ân nợ Núi Sông. Gia nhập khóa 16 Vơ Bị vào tháng 11 năm 1959, được đào tạo thêm kiến thức và nhân cách của một sĩ quan chỉ huy tương lai bằng kỷ luật rất nghiêm nhặt. Ngôi trường Mẹ đón nhận những người trai tám hướng về đây hun đúc chí can trường, tôi luyện thành những người chiến sĩ hùng anh dũng cảm, sẳn sàng phục vụ cho đồng bào-tổ quốc thân yêu. Từ những ngày đầu nhập khoá với tất cả sự nao nức sớm được thi hành nghĩa vụ bởi bên ngoài chiến dịch Ấp Chiến Lược do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ban hành đang được phát động quy mô rộng răi để bảo vệ an ninh cho đời sống dân lành và kiểm soát chặt chẽ hơn sự xâm nhập của cộng quân đang t́m đủ mọi cách gia tăng.

 Những ngày tháng rèn luyện về quân sự, đạo đức và văn hóa ở quân trường Vơ Bị rồi cũng qua nhanh. Những buổi sáng c̣n mờ mịt hơi sương lạnh buốt, che lấp cả mặt hồ Chi Lăng không phân biệt được đâu là làn nước trong đâu là mầu khói trắng sương mù. Đến những buổi trưa lấp lánh hàng thông xanh dưới tia nắng mặt trời, dậy thơm mùi đất cao nguyên như nhựa sống những chàng trai đang căng tràn chí lớn. Cho đến những buổi chiều rơi, từ lưng đồi 1515, ngắm cảnh hoàng hôn tựa tấm voan mềm, mỏng nhẹ như tơ, dần phủ buông xuống khắp núi đồi mầu lam tím nhạt, rừng thông lao xao, đưa hương tỏa ngát nhớ nhung ngập hồn người. Đỉnh Lâm Viên vời vợi ánh trăng khuya, b́nh yên như giấc ngủ của những người khóa sinh sau một ngày tắm đẫm mồ hôi kiên tŕ thao dợt. Để ngày mai tới, huy hoàng trong ánh sáng b́nh minh, ngọn núi sừng sửng hơn hai ngàn cao độ ấy sẽ đón nhận những bước chân đi chinh phục của những chàng sinh viên tuổi trẻ. Tuổi trẻ ắp đầy lư tưởng đẹp ngời như câu khẩu hiệu hằng ngày: "Chúng tôi không t́m an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm" với điều tiên quyết để nhận lănh, đó là Trách Nhiệm-Danh Dự-Tổ Quốc của người sinh viên sĩ quan Vơ Bị Đà Lạt.

 Trong những ngày dưới mái trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam danh tiếng lẫy lừng khắp Đông Nam Á, Nguyễn Xuân Phúc là một sinh viên sĩ quan ưu tú, luôn giữ ǵn tác phong tốt làm gương cho các khóa đàn em. Khi đảm nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng/Tiểu Đoàn 2 của Liên Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan trông coi bốn đại đội gồm các khóa 16,17, 18, anh đă chứng tỏ được bản lĩnh của người chỉ huy hấp thụ được mọi mặt về văn hoá và đạo đức, lúc nào cũng nêu cao tinh thần tự giác và kỷ luật nghiêm minh. Với vóc dáng tầm thước, nhưng các bạn sinh viên sĩ quan đều nhớ tiếng nói của anh rất hùng hồn mạnh mẽ khi ra lệnh, giọng dơng dạc vững vàng khi hô to các khẩu hiệu trong mửi lần tập huấn. Ngoài tác phong quân kỷ kể trên, Nguyễn Xuân Phúc c̣n được các anh em thương mến ở đức tính ḥa nhă, tận t́nh hướng dẫn, sẳn sàng chia xẻ cùng các sinh viên khóa sinh trong t́nh huynh đệ chi binh. Trong những lần các khóa đàn em phải ứng chiến, cắm trại, Nguyễn Xuân Phúc cùng ở lại chia xẻ v́ anh không muốn hưởng riêng đặc quyền được miễn của một SVSQ cán bộ. Đó là những nét chính mà phong cách bên ngoài của anh lúc nào cũng biểu hiện là một cán bộ sĩ quan gương mẫu, từ quân phục thẳng nếp, đai nịt gọn gàng đến dáng điệu đường hoàng chững chạc, cung cách khiêm tốn, thái độ thân thiện vui vẻ, cư xử với trên dưới đều phân minh, tử tế.

 Ngày tốt nghiệp, sinh viên sĩ quan Á Khoa Nguyễn Xuân Phúc ra trường Vơ Bị Việt Nam (đậu hạng Ưu về văn hóa và quân sự) với cấp bậc Thiếu Úy trong buổi lễ măn khoá vào ngày 22 tháng 12 năm 1962. Từ giă ngôi trường Mẹ thân yêu nằm bề thế rộng đẹp trên ngọn đồi 1515 với rừng thông xanh ngát quanh năm, ôm quyện làn sương trắng mỏng phủ mờ thơ mộng mà anh đă gắn bó với hơn ba năm dài học tập với bao niềm lưu luyến. Từ đây anh sẽ là cánh chim tung bay khắp hướng. Mộng sơn hà trị giặc an dân được vung kiếm, vẫy vùng. Chí cả bay cao như ngày nào anh vượt qua được những chông gai hiểm trở của núi rừng, đứng ngạo nghễ trên ngọn núi Lâm Viên (c̣n gọi là núi Lang Biang, cách thành phố Đà Lạt khoảng mười hai cây số về phía Bắc) cao 2163 thước. Từ chiến thắng chinh phục được ngọn núi này đă tạo bước chân những người sinh viên sĩ quan thành chân cứng cho đá mềm trên khắp bốn vùng chiến thuật mai sau.

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan

 Với ước mộng như lời tiền nhân: "Làm trai cho đáng nên trai. Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan", Nguyễn Xuân Phúc chọn binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và t́nh nguyện xin đi tác chiến, đáp ứng với t́nh h́nh chiến sự đang gia tăng sôi bỏng.

 Sau khi về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC, đầu năm 1963, thiếu úy Nguyễn Xuân Phúc được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 2 TQLC đang đóng quân tại Cà Mau-An Xuyên với chiến dịch Sóng T́nh Thương để yểm trợ an ninh cho các khu ấp chiến lược đang được xây dựng, cùng tiếp tay trong sự ngăn chận đường len lỏi của quân du kích, chở vũ khí xâm nhập vào Nam của cộng sản Bắc Việt qua ven biển Cà Mau.

 Sau khi tŕnh diện Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 là Đại úy Nguyễn Thành Yên, thiếu úy Nguyễn Xuân Phúc được bổ nhiệm làm Đại đội phó Đại đội 3 dưới quyền của Trung úy Đại độ́ trưởng Nguyễn Năng Bảo.

 Đời lính chiến đây đó mười phương, ngày nào anh chỉ nghe nói về những nẻo dường Việt Nam trải dài suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Thế là giờ đây anh đă có mặt ở khắp Cà Mau, Đầm Dơi, Năm Căn.v.v... Ôi quê hương miền Nam trù phú nhưng bởi c̣n nhiễu nhương giặc Cộng nên mảnh đất đầm lầy này c̣n hẻo lánh hoang vu. Hương hoa rừng Tràm, gử, than rừng Đước là những tài nguyên hiếm quư vẫn chưa được khai thác tới nơi. Cà Mau nước mặn, rạch, kinh có tôm cá ngập đầy nhưng dân làng c̣n hoang sơ thưa thớt bởi quân cộng c̣n hoạt động khá mạnh ở vùng đất này, dùng địa thế chi chít kinh rạch, rừng cây để làm địa bàn tấn công phá hoại các đồn bót, ngăn chận sự củng cố quân sự, phát triển cải cách đồng ruộng nơi đây của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa.

 Như âm mưu phá hoại đă dự định, tối ngày 9/9/1963 Việt cộng kéo quân bất ngờ đánh úp vào chi khu Cái Nước, gây tổn thất khá nặng nề cho chi khu này. Và cũng ngay trong đêm đó, Tiểu đoàn U Minh của Việt cộng tiếp tục dùng xuồng và đường bộ tiến thẳng vào chi khu Đầm Dơi để tấn công (Cái Nước và Đầm Dơi cách nhau khoảng gần hai mươi cây số đường chim bay). Trong vài giờ đồng hồ, địch quân đă chiếm được một nửa chi khu, quận trưởng Đầm Dơi bị tử thương, những người lính Địa phương quân đang cố gắng chống trả cố giữ nửa phần đất c̣n lại. Tiểu Đoàn 2/TQLC liền được Bộ Tư Lệnh Hành Quân Quân Đoàn IV đặt căn cứ tại An Xuyên do Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao điều động có mặt để giải vây. Bằng trực thăng H-21, các đại đội của Tiểu đoàn 2/TQLC đổ quân xuống cách khoảng từng đợt một:

- Đại Đội1 do Trung Úy Phạm Nhă chỉ huy đổ xuống gần quận.

- Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn do Đại Úy Nguyễn Thành Yên và Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 2 là Đại Úy Nguyễn Văn Hay đáp xuống băi Charlie ở địa điểm kế.

- Đại Đội 4 do Trung Úy Ngô Văn Định chỉ huy đáp xuống băi Alpha cách quận ba cây số về phía đông nam.

- Đại đội 3 của Trung Úy Nguyễn Năng Bảo (Đại Đội Trưởng) và Thiếu Úy Nguyễn Xuân Phúc (Đại Đội Phó) đổ quân xuống ngay sát bờ sông là lực lượng Việt Cộng đang tập trung.

 Nguyễn Xuân Phúc và các anh em đồng đội được trực thăng vận xuống cánh đồng ruộng cằn cửi như mầu cỏ cháy. Nơi đây thiếu mầu mỡ ph́ nhiêu nhưng không thiếu những hố đạn bom vẫn ngày đêm cày xéo. Buổi chiều chưa tắt nắng nhưng bầu trời như nhuốm mầu u uất thê lương. Dân làng đă bỏ chạy mong lánh nạn giao tranh. Họ trốn chui trốn nhủi ở những bụi bờ, khóc không thành tiếng, sợ hăi đến quên cả cầu đến Chúa, Phật, Trời mà chẳng biết có qua được cơn lửa đạn này không?! Có sống được về làng th́ cũng hai bàn tay trắng như đă bao lần khổ sở trước. Người thân ruột thịt có khi cũng chẳng c̣n. Nhà cửa, heo, gà, rau cỏ bị cày xới, cháy rụi thiêu tàn hết rồi c̣n đâu. Đời sống quá gian lao đói khổ rồi mà giặc Cộng sao vẫn chẳng buông tha. Chỉ biết đánh, giết, chiếm miễn sao đạt được tham vọng xâm lăng. Đất nước có điêu linh, dân lành có đổ máu đến bao nhiêu họ có xá kể ǵ. Đời dân nghèo sống dở chết dở như thế này cho tới bao giờ...? Thương đau biết mấy cho vừa, quê hương ơi!

 Những người lính TQLC của Đại Đội 3 lội trên cánh đồng ruộng ngập nước đến đầu gối, địa thế quá trống trải để lấy tư thế nấp bắn. Địch ở phía bờ sông bên trong đang bắn ra tua tủa. Phi pháo hoả lực yểm trợ cho quân ta lại ở ngoài tầm độ. T́nh thế thật nguy hiểm, dễ trở thành bia đạn nhắm tới nếu không kịp xông vào khóa các ổ bắn của địch. Là lính vừa mới ra trường chưa được bao lâu, lần đầu tiên T/U Nguyễn Xuân Phúc đụng một trận cận chiến toé lửa lại bất lợi như thế này, đại đội chết dễ như chơi. Tính thế nào đây? Bọn giặc kia khát máu quá. Cảnh chết thê thảm của đồng đội, oan ức của người dân như con dao nhọn xoẹt qua ḷng anh. Nửi căm hận như ánh thép vừa đốt nung lên, mắt anh loé lên những tia sáng như lửa. Nhất định phải đánh cho tan những dă tâm khát máu đê hèn này. Anh phải khởi sự ngay thôi. Những năm được đào tạo về chỉ huy và quân sự cộng thêm sự dũng cảm, bén nhạy, Nguyễn Xuân Phúc đă mau chóng nghĩ ra một chiến thuật chớp nhoáng như tung đi cú đánh thần tốc, tuy có phần liều lĩnh nhưng trước sự sống chết như đường tơ kẻ tóc của đơn vị, anh không ngại ngần là kẻ xung phong vượt qua lửa đạn, quyết tiến chiếm cho được vị thế đổi lật t́nh h́nh trận chiến. Anh luôn là kẻ đi đầu bất cứ trong t́nh huống nào, bởi chỉ có hành động của chính ḿnh mới có thể là câu nói hùng hồn, xác đáng với người nghe. Anh lao nhanh như gió băo khiến những viên đạn như chưa bắn tới đă rơi. Hành động của anh là ngọn lửa truyền đi, cả đại đội như cháy bừng lên sức chiến đấu mănh liệt. Họ cũng lao đi như tên bắn. Giặc đốt phá quê hương, hăm hại dân lành th́ ta đâu thể nương tay. Đánh giặc phải đánh tới cùng. Chốn sa trường há ǵ mũi đạn lằn tên. Giặc c̣n là đồng bào ḿnh c̣n lầm than đau khổ. Phải diệt được giặc nước nhà mới được thái b́nh yên vui. Xung phong. Anh em ơi, xung phong. Tiếng ḥ reo xung phong vang dội dọc cả bờ sông sắp rút nước theo thủy triều đang hạ. Trước khí thế như vũ băo của những người lính Thủy Quân Lục Chiến thuộc Tiểu Đoàn 2, VC kinh hoàng vứt bỏ súng ống, vượt sông tháo chạy qua phía bên kia bờ.

 Tiếng súng dần thưa thớt rồi ngưng hẳn. Trời đêm đă dịu đi cơn nóng như đă dịu đi những ṇng đạn lửa xối xả bắn ra từ cả hai bên. Mùi tử khí trên những xác người chưa kịp dấy nồng. Chỉ c̣n lại mùi khét của súng và tiếng reo mừng chiến thắng. Cuộc tấn công của VC đă kết thúc, không chiếm được mục tiêu như đă định. Tiểu Đoàn 2 cũng tổn thất một số binh lính, nhất là Đại Đội 3 đă hy sinh khá nhiều. Nhưng bù lại Tiểu Đoàn 2 đă đánh tan được Tiểu Đoàn U Minh, chặn đứng được âm mưu phá hoại và tịch thu được rất nhiều đạn dược, súng lớn của Việt cộng.

 Vui mừng với chiến công mà ḿnh đă góp phần để dành lại đời sống yên ấm cho người dân hiền. Nhưng ḷng người lính Nguyễn Xuân Phúc cũng không thể tránh được nửi buồn đau ghê gớm trước cái chết thảm khốc của những người chiến hữu chung đơn vị trong trận đánh vừa qua. Dẫu vẫn biết rằng đă xông pha ra sa trường là người lính đă chấp nhận tử sinh... Xưa nay, vẫn hiểu lời cổ nhân: "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Có mấy ai đi đánh giặc biết được ngày trở về. Chỉ cố làm tṛn nghĩa vụ người trai trong thời đất nước ngả nghiêng để giữ ǵn bảo vệ đồng bào tổ quốc thân yêu.

 Thôi đành mượn đến ly rượu đầy rót cho đến cạn trong đêm nay để gởi những giọt nồng cay này đến bạn bè anh em đă cùng chia xẻ gian nguy mà chẳng sống c̣n để cùng hưởng chút vui say. Thôi, hăy say đi để khóc bạn bè cho hả. Say đi để thấy đường gian nan trước mặt không hề nản chí bước chân người lính trận. Say đi, ḱa tiếng gọi Non Sông đang rền vang tiếng thét sục sôi, những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa ơi, hăy giữ ǵn, chống đỡ quê hương thoát khỏi bàn tay đốt phá giang sơn. Say đi để hào khí những người thanh niên đất Việt bừng bừng lên như ngọn lửa quyết xả thân tạo ḥa b́nh cho đất nước yên vui. Ly rượu đă rót tràn để mời anh, mời bạn, mời em. Tràn như t́nh yêu của những người con dành cho Tổ Quốc, cay nồng như nửi đau xé ḷng của Mẹ ôm từng mảnh đất phân ly, lau gịng máu chảy như đă thành sông...

 Đêm lạnh đă tàn, chai rượu cạn cùng với bạn bè cũng đă vỡ tan. Người sống nhắc đến người chết cũng đă ṃn hơi. Nh́n những ánh sao lấp lánh lưng trời, đêm nay có v́ sao nào đă rụng... Nh́n trời nh́n sao, một phút giây nh́n sững lại ḿnh, người Thiếu Úy trẻ Nguyễn Xuân Phúc bửng khóc như chưa bao giờ khóc thế! Nước Non ơi...!

 Trận chiến Đầm Dơi là một chiến thắng vẻ vang của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nói chung và của Tiểu Đoàn 2 TQLC tại vùng IV nói riêng. Cả Tiểu Đoàn 2 đă được tưởng thưởng nhiều huy chương cao quư của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và Quân Đội Hoa Kỳ trong năm 1963. Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC Lê Nguyên Khang xuống tận mặt trận Đầm Dơi ngợi khen và thăm hỏi các chiến sĩ. Trận thư hùng này đă đi vào quân sử Việt Nam Cộng Ḥa với những trang hùng tráng nhất sau ngày hiệp định Genève (1954).

Lưỡi dao ta đang sắc

Ngọn giáo giặc phải lùi

 (Nguyễn Trăi)

 Cũng qua trận tham chiến lớn đầu tay của Nguyễn Xuân Phúc ở Đầm Dơi, thượng cấp và anh em đồng đội đă biết được sự gan dạ quả cảm cùng khả năng chiến trường nhạy bén của Nguyễn Xuân Phúc như thế nào nên càng tin tưởng và quư mến thêm.

 Bấy giờ, Nguyễn Xuân Phúc không c̣n là một cán bộ SVSQ Đà Lạt lúc nào cũng áo quần thẳng nếp, giày, đai bóng loáng nữa mà qua những cuộc hành quân liên tiếp, Thiếu Úy Nguyễn Xuân Phúc giờ đây đă sạm đen nắng cháy sa trường trong bộ áo trận bạc màu sương gió, dấu giày dây vết bùn dơ nơi đầm rừng lau lách.

 T́nh h́nh chiến sự vẫn sôi bỏng khắp nơi, những người lính tác chiến vẫn miệt mài sương gió, đi hết cuộc hành quân này lại có mặt ở các trận chiến kia như cơn sóng cuốn, sáng ở đầu ghềnh, chiều đă chân mây... lớp lớp phủ dồn, ra khơi!

 Tháng 6 năm 1966, trong lần hành quân ra Huế, Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc lúc bấy giờ là Đại Đội Trưởng/Đại Đội 4 của Tiểu Đoàn 2/TQLC đă cùng Tiểu Đoàn đánh một trận nhớ đời ở đoạn cầu Pḥ Trạch-Phong Điền trên dọc đường số I v́ đă lật ngược được thế cờ, tạo thành trận phản phục kích thật lẫy lừng do vị Tiểu Đoàn Trưởng là Trung Tá Lê Hằng Minh chỉ huy. Giặc Cộng đă thua to sau vài giờ giao chiến đă phải chém vè chạy thoát về phía núi, bỏ lại nhiều súng cối, SKZ 57 ly và đại bác 75 ly... Nhưng quân ta đă phải trả một giá quá đắt, đó là sự hy sinh của vị chỉ huy Tiểu Đoàn Trâu Điên/TQLC Lê Hằng Minh cùng một số chiến hữu khác, đă vĩnh viễn nằm xuống trên mảnh đất khói lửa Trị-Thiên.

 Riêng Đ/U Nguyễn Xuân Phúc cũng bị thương trong trận phản phục kích oanh liệt này.

 Sau đó Đại Úy Ngô Văn Định về làm Tiểu Đoàn Trưởng/Tiểu Đoàn 2 và Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc làm Tiểu Đoàn Phó thay cho Đại Úy Nguyễn Văn Hay (chuyển về pḥng thanh tra Sư Đoàn). Người lính Nguyễn Xuân Phúc vẫn tiếp tục chiến đấu, luôn đặt danh dự của người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa lên hàng đầu, thanh liêm thẳng thắn, tôn trọng kỷ luật và chu toàn trách nhiệm đối với đơn vị thật nhiệt t́nh hăng say, lúc nào cũng chí t́nh đối với anh em chiến hữu bằng tinh thần đồng đội nên anh được mọi người từ thượng cấp đến thuộc cấp rất thương mến nể v́.

 Nguyễn Xuân Phúc khi ra trận luôn chiến đấu dũng cảm, quyết định nhanh và táo bạo. Tánh t́nh bộc trực nhưng rất tốt rất hiền với các chiến hữu của ḿnh và thật dữ dội khi đối mặt với quân thù. V́ thế anh được các đàn em và bạn hữu thương mến đặt biệt danh cho anh là Robert Lửa. Lửa của cương trực, của khí thế đanh thép, bừng bừng.

 Nhưng bên trong con người cương nghị ấy lại ẩn chứa một tâm hồn mẫn cảm, yêu mến cái đẹp cái hùng, thích hát ḥ hay đóng vai Trấn Thủ Lưu Đồn mỗi khi có dịp vui chơi văn nghệ từ những năm trung học hoặc sau những giờ phút hành quân căng thẳng gian lao. Là người hào sảng, đối với bạn bè là cho đi tất cả, ngay khi cần phải dốc đến đồng bạc cuối cùng trong túi cũng chẳng tiếc, chẳng màng. Anh cũng là người con chí hiếu trong gia đ́nh lễ giáo có chín anh chị em. Rất trọng kính bố mẹ, nhưng có lần anh cảm thấy ḿnh có lửi, bất hiếu v́ đặt t́nh nước trên t́nh nhà khi dấu gia đ́nh âm thầm ghi danh vào trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam. Nhưng thân phụ và thân mẫu anh là người hiểu biết đức độ nên dẫu xót thương con vẫn phải nén ḷng chấp nhận, thông cảm và khuyến khích khi hai người con trai rời nhà cùng một lúc, đi làm lính trận miền xa, chẳng biết đến ngày về.

 Rồi Nguyễn Xuân Phúc được đi học khóa Tham Mưu ở Đà Lạt, khi về làm Tiểu Đoàn Phó/Tiểu Đoàn 5 TQLC. Và thời gian này, anh cũng đă tham gia trận đánh Rạch Ruộng vào cuối năm 1967 khi Tiểu Đoàn 5 được tăng cường để phối hợp với Sư Đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ & Lực Lượng Sông Ng̣i HK đặt căn cứ tại Đồng Tâm để mở cuộc hành quân tiêu diệt các ổ đóng quân của Việt cộng dọc theo phía bắc khu vực sông Mỹ Tho. Đoàn quân được lệnh di chuyển bằng tàu lúc gần sáng để tiến vào Rạch Ruộng là nơi ẩn trú của Tiểu Đoàn 502 VC. Dọc đường bị VC phục kích làm một chiếc tàu LCM bị thiệt hại. Sự việc xẩy ra khiến đoàn quân sục sôi thêm. Tiểu Đoàn Trưởng/TĐ 5 TQLC là Thiếu Tá Phạm Nhă yêu cầu cố vấn Mỹ cho vượt qua chử phục kích để nhanh chóng đến địa điểm đổ bộ. Hừng sáng th́ tới nơi, Tiểu Đoàn 5 TQLC chia ra làm hai cánh quân. Cánh A do Thiếu Tá Phạm Nhă chỉ huy cùng các Đại Đội CH (Trung Úy Huỳnh Văn Phú), Đại Đội 3 (Trung Úy Đoàn Đức Nghi), Đại Đội 1 (Trung Úy Hồ Quang Lịch) đánh ngay phía mặt tiền bờ sông, thẳng vào bên trong ẩn nấp của địch. Cánh B do Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu các Đại Đội 4 (Đại Úy Đử Hữu Tùng), Đại Đội 2 (Trung Úy Cổ Tấn Tịnh Châu) vượt lên trên địa điểm đổ bộ, bọc hậu từ phía sau đánh tới. Nguyễn Xuân Phúc đă cùng với các chiến hữu Tiểu Đoàn 5 TQLC chiến đấu hết sức ḿnh với quyết tâm phải giữ vững Đồng Tháp Mười lúa ngọt cây lành này cho người dân vô tội nơi đây. Cuộc giao tranh kéo dài từ rạng sáng cho đến mặt trời lặn mới kết thúc. Cảnh đổ vỡ thật điêu tàn. Giặc về gieo khói lửa, làng vắng không người dân, ruộng đồng lúa ngă xác xơ, Mặt trời ngó xuống như cũng rầu rầu, gịng sông Cửu Long vẫn vô t́nh chảy xiết qua kinh rạch hiền ḥa, trôi mênh mang... Lửa đạn biến đất trời thành cơn lốc xoáy, thây người tung theo bụi cát mịt mù. Trận đánh diễn ra trong một ngày nhưng thật dữ dội như năm xưa trên gịng sông Tiền Giang, người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ cũng đă đánh bạt được quân Xiêm La trong trận thủy chiến kinh hồn, chiếm giữ lại mảnh đất phù sa mầu mỡ này cho cháu con đời sau.

 Đêm đă xuống, trận giao tranh đă tàn. Những hàng dừa lả ngọn theo gió lay uyển chuyển trên các bờ mương. Phong cảnh mộc mạc nên thơ này sẽ đẹp biết bao cho người dân sống với làng quê nếu được thanh b́nh, không bóng dáng cộng quân về phá nát yên vui.

 

Với sức chiến đấu kiên tŕ và mănh liệt của Tiểu Đoàn 5 TQLC cùng sự phối hợp và yểm trợ của lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ. Quân ta đă toàn thắng với nhiều chiến lợi phẩm. Thành tích đó đă tạo cho Đại Tá David (SĐ 9 Bộ Binh) và Đại Tá Salzer (Hải Quân) được vinh thăng cấp Tướng. Và Tiểu Đoàn 5 TQLC nhận lănh được nhiều huy chương cao quư. Sự thiệt hại bên ta hy sinh và bị thương mấy chục người. Trung Úy Cổ Tấn Tịnh Châu và Trung Úy Hồ Quang Lịch cũng bị thương trong trận đánh này.

 Chiến cuộc vẫn lan tràn tiếp diễn khắp nơi nơi, người lính Nguyễn Xuân Phúc có mặt hầu hết khắp bốn vùng chiến thuật. Từ B́nh Chánh đến Gio Linh, Quảng Trị, Thừa Thiên... Người em ruột là Trung Úy Nguyễn Phú Thọ thuộc Sư Đoàn I Bộ Binh đang hành quân trong trận đánh Đông Ba để phản công lại trận tổng công kích Tết Mậu Thân đợt 1 của VC ở Huế, hai anh em gặp nhau ở Mang Cá khi Tiểu Đoàn N.X.Phúc từ trong Nam ra bổ xung giải tỏa. Từ khi rời trường Mẹ, đời lính chiến đẩy đưa mửi người một nơi, lâu lắm rồi họ mới gặp lại nhau nhưng cũng chỉ trong thoáng chốc như khói bụi chiến trường bởi t́nh h́nh đang căng thẳng. Chỉ kịp bắt tay và nói đùa với nhau một câu của người anh: "Mày chưa chết à?", người em ngạo nghễ trả lời: "Đánh giặc sức mấy mà chết được".

 Với chủ mưu xâm chiếm miền Nam bằng mọi giá, mọi cách, CSBV càng lúc càng gia tăng những cuộc đánh phá mạnh mẽ.

 Với sự chuẩn bị từ nhiều tháng trước cùng sự tiếp tay của những tên Việt gian nội gián, Việt cộng đă thực hiện trận tổng công kích quy mô trên khắp lănh thổ Quốc Gia. Nặng nhất là Huế và Sàig̣n trong những ngày đầu xuân Mậu Thân (31/01/1968), gây máu lửa tang thương cho người dân trong những ngày lễ Tết dân tộc thiêng liêng. Vừa nhận được lệnh tăng phái, Tiểu Đoàn 5 của N.X. Phúc đă có mặt ở Huế ngay. Huế đang ch́m ngập trong dầu sôi lửa bỏng của chết chóc kinh hoàng. Những vụ thảm sát, mồ chôn tập thể những người dân lành vô tội trong thành phố diễn ra hằng loạt hằng giờ. Đó là tội ác hay chiến tích lớn của Cộng quân khát máu đă gây ra?! "Thật là Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội. Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi (Nguyễn Trăi)".

 Nhưng nhờ sự hy sinh chiến đấu dũng cảm của các lực lượng quân binh chủng Việt Nam Cộng Ḥa dưới sự điều động đảm lược của vị chỉ huy Tư Lệnh Sư Đoàn I Ngô Quang Trưởng đă nhanh chóng chặn đứng và đẩy lui được làn sóng đỏ xâm lăng, đánh phá bạo tàn của CSBV sau gần một tháng phản công.

 Tháng 4/1968, Việt cộng lại tấn công vào thành phố Sàig̣n trong cuộc tổng công kích đợt hai. Hết đem quân ra Huế lại xuôi về trong Nam, Thiếu tá Nguyễn Xuân Phúc cũng vừa nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng thay cho Thiếu Tá Phạm Văn Chung. Trước sự tấn công dă man có mưu mô kế hoạch của VC, Nguyễn Xuân Phúc lại một lần cùng với các anh em chiến hữu trong đơn vị quyết sống chết đối đầu để ngăn chận gịng tiến quân xâm nhập cũng như tháo lui của giặc. Dây chuyền kế hoạch tổng công kích của CSBV dần vỡ tan, bị chặt đứt trước những nhát kiếm sắc bén vung lên của những chiến sĩ đảm lược kiên cường thuộc các đơn vị tinh nhuệ hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tiểu đoàn 6 TQLC cũng góp được chiến công là đă càn quét được bọn giặc ra khỏi trận địa B́nh Ḥa.

 Sau khi bị thương, Nguyễn Xuân Phúc được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn Công Vụ để dưỡng thương thêm một thời gian. Ở đây tuy công việc nhàn nhă hơn, không phải đối đầu với những nguy nan sống chết từng phút từng giờ nhưng ḷng anh vẫn khát khao quăng đời chiến đấu nơi rừng sâu núi thẵm với các bạn bè chiến hữu như tâm sự hổ nhớ rừng của Thế Lữ mà anh nhớ thuộc ḷng khi c̣n đi học:

nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già

với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

với khí thét khúc trường ca dữ dội

ta bước chân lên, dơng dạc đường hoàng...

(Thế Lữ)

 Đến tháng 3 năm 1969, Nguyễn Xuân Phúc nhận được sự vụ lệnh từ Đại Tá Tham Mưu Trưởng Bùi Thế Lân về giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC. Một Tiểu Đoàn vang danh khắp chốn sa trường mà anh đă từng tham dự gắn bó và đổ máu trước đây với những chiến tích hào hùng của Tiểu Đoàn Trâu Điên uy dũng.

 Trong chiến dịch hành quân sang Kampuchia nhằm truy quét các lực lượng vơ trang CSBV đang chiếm đóng những vùng đất này để dễ bề xâm nhập vào lănh thổ Nam Việt Nam qua các ngả đường biên giới. Đầu năm 1970, Tiểu Đoàn 2 TQLC từ căn cứ Chương Thiện-Cần Thơ đă cùng với các Tiểu Đoàn 1 và 4 TQLC thuộc Lữ Đoàn B của Đại Tá Tôn Thất Soạn tham gia vào cuộc hành quân Cửu Long để dẹp địch. Sau cuộc đổ bộ thần tốc từ bến phà Neak Luong, Tiểu Đoàn 2 chưa kịp đóng quân đă nhận được lệnh trên cấp bách và theo lời yêu cầu của chánh phủ Cộng Ḥa Cambodia: nhẩy trực thăng vận xuống giả́ vây khu vực Prey Veng đang bị VC chiếm đóng. Vị trí thành phố Prey Veng nằm trên vùng đất cao nên các cánh quân của Tiểu Đoàn lần lượt đổ xuống phía bên ngoài bờ thành, bám theo các cánh đồng dưới thấp. Đại đội I của Trung úy Lâm Tài Thạch vừa chuyển quân xuống đầu tiên đă chạm địch nấp dưới những lớp rơm phủ trên đường hầm theo lối đánh độn thổ để phục kích. Nhưng với sự b́nh tĩnh sáng suốt và dũng cảm của Tiểu Đoàn Trâu Điên do Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc chỉ huy đă càn quét được tuyến giặc đột kích pḥng thủ bên ngoài, phối hợp cùng đơn vị bạn tiến công thẳng vào bên trong thành phố và mau chóng lập nên chiến công hiển hách: đánh tan được một Trung Đoàn VC, tái chiếm được tỉnh lỵ Prey Veng ngay sau một ngày giao chiến dữ dội.

 Với những chiến công lừng lẫy như thế và tám lần được tuyên dương Anh Dũng Bội Tinh, Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc & Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên là Tiểu Đoàn đầu tiên của Sư Đoàn TQLC Việt Nam và cũng là Tiểu Đoàn duy nhất đă được tưởng thưởng huy chương cao quư của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đó là giây biểu chương Tam Hợp, tạo cho Sư

Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói chung và Tiểu Đoàn 2 nói riêng thêm sức mạnh tự hào, oai phong.

ngắm Non Sông căm nửi thế thù

thề sống chết cùng quân nghịch tặc

 (Nguyễn Trăi)

 Sau những thất bại nặng nề, vẫn không từ bỏ ư đồ xâm lăng, CSBV tiếp tục dàn quân ở biên giới Việt-Lào. Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên lại tiếp tục lao vào trận địa với cuộc hành quân Lam Sơn. Trận chiến càng gay go khốc liệt th́ những người lính Việt Nam Cộng Ḥa càng gan ĺ quyết liệt hơn. Trong lửa đạn của cuộc chiến Lam Sơn, dũng khí của người Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Nguyễn Xuân Phúc đă ngời lên như ánh thép, vung gươm chống đỡ ǵữa ṿng vây của địch tràn xung hàng hàng lớp lớp. Bằng dũng cảm can cường cùng sự nhậy bén như mũi tên xuyên thẳng vào nguy nan, xem thường sống chết, quyết đưa dẫn các đại đội đàn em bạt núi băng rừng từ cứ điểm Đống Đa vượt qua tám cây số đường chim bay lửa đạn bắn tua tủa như mưa từ phía nam biên giới Việt-Lào để về đến Khe Sanh gần đầy đủ, an toàn. Trong chiến thuật hành quân, đụng chạm và đối đầu với địch đă gian nguy. Rút quân mà vẫn giữ được an toàn lại càng khó khăn hơn. Nguyễn Xuân Phúc đă chu toàn trách nhiệm của người Tiểu Đoàn Trưởng, với tất cả sự quan tâm, thương mến của một người anh Cả luôn bảo vệ cho đàn em ḿnh vượt qua khỏi những hiểm nguy bằng đảm lược, kiên tŕ. Những ai đă từng chiến đấu, cùng chung đơn vị với anh đều hiểu rơ điều này và nhiều năm sau khi nhắc lại đều tỏ ḷng thương tiếc và quư mến.

 Trong chiến công hành quân Lam Sơn 719 năm 1971, Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương công trạng ban thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, Tiểu Đoàn Phó Trần Văn Hợp được thăng cấp Thiếu Tá và Trung Úy Lâm Tài Thạch được Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương tại Huế.

 Bước chân người lính Nguyễn Xuân Phúc cùng Tiểu Đoàn 2 vẫn tiếp tục trải dài suốt các ngả đường đất nước, nơi nào có bóng giặc thù là nơi đó có xung phong chiến đấu của những người chiến sĩ Quốc Gia hết ḷng bảo vệ Non Sông. Từ Hạ Lào, Khe Sanh, Triệu Phong, Mai Lộc, Đông Hà, Quảng Trị, Gio Linh.v.v... Tháng 3 qua tháng 4 năm 1972, Tiểu Đoàn 2 vẫn tiếp bước với những cuộc hành quân gay go ở Vùng I. Đă chặn đứng và đẩy lui được nhiều cuộc tấn công của CSBV ở Mỹ Chánh, La Vang. Quê hương miền Trung nắng cháy với những buổi sáng, trưa, chiều tối vẫn đạn bom khói lửa mù trời dưới tầm đạn pháo kích như mưa của CSBV. Ḷng anh không chai cứng nổi trước những tàn phá của chiến tranh, những nửi đau thê thiết ră rời của những người dân phố nhỏ quê nghèo. Anh biết làm ǵ cho vơi hết những nửi niềm đeo nặng trong tâm tư. Làm thế nào để sớm chấm dứt những tang thương, máu đổ của chiến cuộc đầy dẫy cảnh lệ rơi máu đổ hằng ngày, của anh em đồng đội, của bao dân lành vô tội chung quanh. Rồi đây, trang sử có lật qua nhưng con đường đẫm máu với bao cảnh chết hắ hùng của trẻ thơ, phụ nữ, người già, thanh niên thiếu nữ gánh gồng chạy loạn trên con đường từ Quảng Trị-Mỹ Chánh dọc theo quốc lộ 1, nằm ngả chết chất chồng lên nhau thành cảnh chết chưa từng thấy chưa từng có trước đây, nay bằng sự dă tâm khát máu của CSBV cố t́nh nhả đạn thẳng vào đoàn người vô tội không chút nương tay đă tạo nên được con đường Đại Lộ Kinh Hoàng này, thật quá khủng khiếp! Nước sông Thạch Hăn vẫn luân chuyển từng giờ ra biển cả nhưng không sao kéo trôi, rửa tan được gịng máu lệ oan khiên đổ tràn nơi đây, tháng ngày này!

 Sau khi được thăng cấp Trung Tá, cuối tháng 5/1972 Nguyễn Xuân Phúc bàn giao Tiểu Đoàn 2 lại cho Thiếu Tá Trần Văn Hợp, nhận chức Lữ Đoàn Phó LĐ147 của Đại Tá Nguyễn Năng Bảo. Thời điểm đó, CSBV đă khởi đầu cuộc xung quân xâm chiếm vào lănh thổ miền Nam Việt Nam qua địa đầu giới tuyến Quảng Trị với những loạt tấn công ồ ạt bằng chiến xa T-54, PT-76 và đủ loại vơ khí lớn của cộng sản Nga-Tàu cung cấp.

 Lữ Đoàn 147 TQLC từ Hải Lăng tiếp tục điều quân chận đứng mũi tiến công của VC ở phía bắc Quảng Trị. Sau đó đă cùng với Lữ Đoàn 258 kết hợp tá́ chiếm Cổ Thành Quảng Trị theo kế hoạch của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Ngô Quang Trưởng. Đây là một quyết định rất sáng suốt và thao lược của vị tướng tài ba này: ỏCon đường duy nhất là phải tái chiếm lại thành phố nàyơ . Quyết định và câu nói này của ông cùng sự có mặt thường xuyên ngoài mặt trận sôi bỏng để thăm nom khích lệ và theo dơi từng bước tiến của những cuộc truy quét hành quân diệt địch là một động viên tinh thần rất lớn cho các chiến sĩ đang vững vàng chiến đấu dành lại từng tấc đất thân yêu là bao xương máu của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, là bao máu thịt của người dân đă ngả xuống cho Ḥa B́nh-Tự Do.

 Với quyết tâm đó, toàn thể các lực lượng chiến sĩ có mặt trong cuộc hành quân tái chiếm cổ thành Quảng Trị đă đánh giặc hết sức ḿnh và sau gần năm tháng chiến đấu, ngày 16/9/1972 Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă lấy lại được thành phố Quảng Trị một cách vẻ vang. Chiến thắng này là công trạng của nhiều người, nhiều binh chủng. Với bao xương trắng máu đào mới dành lại được. Trong đó có các Lữ Đoàn 147 TQLC: (Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc), Lữ Đoàn 258 TQLC (Đại Tá Ngô Văn Định, Trung Tá Đử Đ́nh Vượng), Tiểu Đoàn 6 (Trung Tá Đử Hữu Tùng), Tiểu Đoàn 3 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh), Tiểu Đoàn 2 (Thiếu Tá Trần Văn Hợp), Tiểu Đoàn 1 (Thiếu Tá Nguyễn Đăng Ḥa), Tiểu đoàn 5 (Thiếu Tá Hồ Quang Lịch), Tiểu Đoàn 7 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Kim), Tiểu Đoàn 8 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán), Tiểu Đoàn 9 (Trung Tá Nguyễn Kim Để).v.v...

 Toàn quân Việt Nam Cộng Ḥa đă dựng lại được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ tung bay rạng rỡ trên bầu trời nắng ấm quê hương vào lúc tái chiếm được cổ thành Quảng Trị thân yêu ngày 16 tháng 9 năm 1972. Tiếng ve sầu đă thôi kêu than sau một mùa hè khó́ lửa. Riêng cánh phượng hồng trên những hàng Phượng vỹ vẫn thắm tươi dưới ánh mặt trời, đẹp buổi hoan ca.

 Đầu năm 1975, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc được đề cử chức vụ Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 và Lữ Đoàn Phó là Trung Tá Đử Hữu Tùng (là vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 đă hạ được nhiều chiến xa T-54 và đă cắm lá cờ vàng tung bay ngạo nghễ trong ngày tái chiếm cổ thành Quảng Trị (16/09/1972), một người bạn đồng khóa 16 Vơ Bị Đà Lạt và cũng là người bạn từng chung vai sát cánh với anh trong nhiều trận đánh lẫy lừng trên khắp bốn vùng chiến thuật hành quân. Lữ Đoàn 369 vẫn tiếp tục những cuộc hành quân truy diệt địch xâm lăng, băng rừng lội suối suốt từ Cửa Việt, Đông Hà, Gio Linh, qua Cam Lộ, Hải Lăng, Quảng Nam. Từ bờ sông Thạch Hăn, dưới bóng núi Trường Sơn đến Đà Nẵng, Tiên Sa...

họa phúc có nguồn, đâu bổng chốc?

anh hùng để hận, dễ ǵ nguôi...

 (Nguyễn Trăi)

 Người lính Nguyễn Xuân Phúc đă đi qua nhiều trận chiến, dăi dầu với sương gió hành quân, máu anh cũng đă đổ nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa sa trường. Đạn tên vẫn chừa anh ra cho đến một ngày... ngày 29 tháng 3 năm 1975.

 Lệnh lui binh như một tiếng súng ghim thẳng vào tim những người lính đang hiên ngang chiến đấu dưới mầu cờ Tổ Quốc bởi ḷng sục sôi phẫn uất trước những bạo tàn của Cộng quân đang gây ra trên mảnh đất quê hương. Miền Trung thương yêu ngập máu lửa tơi bời. Người Lữ Đoàn Trưởng 369 Nguyễn Xuân Phúc một lần nữa vượt lằn lửa đạn đưa dẫn các Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 6, Tiểu Đoàn 9 của ḿnh về Đà Nẵng an toàn.

 Đà Nẵng, ngày 29 tháng 3 năm 1975, nơi mà người Lữ Đoàn Trưởng 369 đang có mặt với nhiều chiến hữu các đơn vị quân binh chủng QLVNCH cùng vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I (Ngô Quang Trưởng) một ḷng yêu nước yêu dân, đau đớn nh́n quê hương đang từ từ nghiêng ngả.

 Cuối tháng ba, quê hương đang rực màu lửa khói, bầu trời tang thương đang đổ lệ xuống nhạt nḥa khắp đất nước điêu linh. C̣n ǵ đâu với cảnh hoang tàn đổ nát thê lương. Lớp lớp người người khóc chạy dưới thác đạn mưa bom. Ôi, nước mất - nhà tan. Bao vong linh đă từng sống chết cho Tổ Quốc c̣n ẩn khuất đâu đây. Tiếng thét hờn v́ đâu nên nửi này như rung chuyển khắp núi sông. Đỉnh Trường Sơn bạc trắng nửi niềm Đau. Ḷng biển Đông dội vang từng đứt đoạn. Mạch sông sầu thấm sâu ḷng đất Mẹ, khóc thương con tay súng ngỡ ngàng rơi, những tay súng không v́ cuồng điên khát máu, không vô t́nh bắn chết lương dân, không phá nát mảnh tiền đồ Tổ Quốc. Những tay súng hiên ngang v́ Chính Nghĩa, diệt bạo tàn xâm lấn quê hương, mang yên ấm cho thôn làng thành thị, đem sức ḿnh tranh đấu chữ Tự Do, để giang sơn tô đẹp màu cẩm tú, cơi bờ thêm rộng mở thăng hoa, hoà b́nh đến nước nhà vui Độc Lập, cảnh thanh b́nh ước mơ c̣n sáng măi.

 Ôi, giấc mộng của những người dân nước Việt, của những người chiến sĩ cầm súng giữ quê hương. Sao giờ đây, phải nh́n cảnh quê hương hoa gấm đang rơi ch́m trong đổ nát. Trá́ tim muôn triệu người cũng vỡ với đau thương.

 Cuối tháng ba, nắng Hạ Lào mới vừa nóng ấm mà sao lớp sóng xanh Non Nước như tuôn gịng lệ đỏ, áng mây trời Tiên Sa tựa phủ lớp khăn tang mờ. Giữa thế cờ thay đổi, khói lửa rực trời Nam, ch́m khuất trong những tiếng kêu than ai oán, khung cảnh hửn loạn, hai người bạn cũng là hai vị Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc và Lữ Đoàn Phó Đử Hữu Tùng cùng đứng dừng lại, dơi mắt nh́n dăy núi cao xa, vời vợi... Bóng hai người lính đổ dài trên băi biển, lặng yên mà ḷng sâu đang băo nổi, sóng ngầm. Nửi khổ đau của đoạn trường qưê hương sao nói được nên lời! Ôi, xă tắc sơn hà một sớm một chiều như khói mây, tan tác.

 Gịng người xao xác lũ lượt ra khơi. Hai người lính đồng hành cùng ở lại. Ở lại với mảnh đất quê hương yêu dấu này đă thấm mặn bao gịng máu của anh em đồng đội. Xác thân thà tan ră nơi rừng sâu biển mặn, bám vào cát đá Nước Non trùng điệp, làm hạt bụi Trường Sơn bất khuất để giữ lại khí phách anh linh của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa kiên cường luôn hằng Sống và Chết cho Tổ Quốc cùng lư tưởng Hoà B́nh- Tự Do Dân Tộc.

 Ngày 29 tháng 3 năm 1975, những người chiến sĩ ấy đă cùng ra đi với tiếng hờn Núi Sông, trở về ḷng đất Mẹ thân yêu...

những người Lính yên nằm ở đây

trái tim chúng tôi - yêu thương nhất!

lấy thơ ḥa với nước mắt đầy

chúng tôi tạc tượng người Lính đó!

những người Lính đạp từng nấc mây

những người Lính mở đường trên đất

khắp bốn phương Nam Bắc - Đông Tây

những người Lính không bao giờ mất!

Người Lính chúng tôi nói hôm nay

đă đi sâu vào ḷng lịch sử

tượng Người để lại cho Tương Lai

sẽ giữ hoài Quê Hương Đất Tổ!

 

Ngọc Thủy

 

E-mail the Webmaster with questions or comments about the Web site