TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM
 

                                                                                                       Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến

                                                                                                                                Mekong

       Binh chủng TQLC Việt Nam được thành lập ngày 1 tháng 10/1954 theo sắc lệnh của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm từ các đơn vị biệt kích (Commando) nổi tiếng và Tuần Giang Xung Kích (Dinassaut) của Hải Quân Pháp di chuyển vào miền Nam sau hiệp định Geneva 1954, trực thuộc quân chủng Hải Quân với quân số 1,150 người và bộ chỉ huy ở trại Cửu Long (Thị Nghè), sau dời về số 15 Lê Thánh Tôn Saigon (nguyên là cơ sở của đơn vị Commando của Hải Quân Pháp trước đây) gần bộ tư lệnh Hải Quân VNCH ở bến Bạch Đằng.
      Phái Bộ Quân Sự Pháp muốn duy tŕ h́nh thức bộ binh xung kích hoạt động trên các giang đỉnh đầy sáng tạo và khá thành công trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-54) cũng như các hoạt động đổ bộ và binh chủng TQLC vẫn c̣n tùy thuộc vào sự yểm trợ tiếp vận của Quân Đội Pháp trong thời gian này.
     Tuy nhiên ngay từ đầu đơn vị cố vấn TQLC Hoa Kỳ do Trung Tá Victor Croizat chỉ huy đă để lại một dấu ấn sâu đậm trong việc h́nh thành, xây dựng và phát triển binh chủng TQLC non trẻ này. Thông thạo tiếng Pháp và thân cận với TT Ngô Đ́nh Diệm khi chỉ huy nhóm cố vấn Hoa Kỳ yểm trợ cho nỗ lực di cư gần 1 triệu dân Miền Bắc vào miền Nam sau hiệp định Geneva cũng như tái định cư cho những người dân xa xứ này, Croizat được xem như một anh hùng trong những ngày đầu của chế độ VNCH.
     Trung Tá Croizat trở thành cố vấn trưởng đầu tiên của binh chủng TQLC Việt Nam và cùng với Đại úy Phạm Văn Liễu hoạch định việc tổ chức, xây dựng và phát triển binh chủng TQLC từ những đơn vị không đồng nhất và đóng rải rác từ Huế vào đến đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian đầu rồi dần dần trưởng thành sau những năm khói lửa của thập niên 1960 và 1970 thành một trong những đại đơn vị thiện chiến và lừng danh nhất trong chiến cuộc Đông Dương lần thứ hai (1945-54).
     Đại úy Liễu từng hoạt động lâu dài trong các liên đoàn tuần giang xung kích cũng như thực tập với các đơn vị biệt kích Commando ở miền Bắc trước khi di chuyển vào miền Nam sau hiệp định Geneva nên được giao phó trách nhiệm thành lập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến với Trung Úy Lê Nguyên Khang là phụ tá. Hai tiểu đoàn đầu tiên được thành lập từ các đơn vị biệt kích nổi tiếng và tuần giang xung kích của Hải Quân Pháp trước đây với cố vấn người Pháp, nhưng tổ chức theo biên chế tiểu đoàn TQLC của quân đội Hoa Kỳ với 1 đại đội chỉ huy, 4 đại đội chiến đấu và 1 đại đội súng nặng.
      Được sự yểm trợ tối đa của quân chủng TQLC Hoa Kỳ qua toán cố vấn Marine Advisory Unit (MAU) bao gồm tổ chức, huấn luyện, tham mưu, hành quân và yểm trợ tiếp vận, các đơn vị TQLC Việt Nam hoạt động hành quân và duy tŕ truyền thống tự hào binh chủng (esprit de corps) tương tự như các đơn vị bộ chiến của TQLC Hoa Kỳ với phù hiệu, bộ quân phục rằn ri "da cọp" và màu mũ xanh riêng biệt.
      Các sĩ quan chỉ huy mới được tuyển chọn kỹ càng từ Trường Vơ Bị Đà Lạt và Trường sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Từ tháng 12 năm 1957 các sĩ quan TQLC Việt Nam cũng luân phiên theo học các khóa huấn luyện của sĩ quan TQLC Hoa Kỳ ở Quantico (Virginia) trong khi các hạ sĩ quan huấn luyện theo học khóa huấn luyện căn bản ở San Diego để thành lập trung tâm huấn luyện TQLC ở Thủ Đức.

         Tiểu Đoàn 1 và 2 TQLC h́nh thành trong năm 1955 cùng với một bộ chỉ huy binh chủng và một đại đội pháo binh. Tiểu Đoàn 3 TQLC được thành lập vào tháng 5 năm 1959 và đến ngày 1 tháng 6/1959 th́ Liên Đoàn TQLC được chính thức thành lập với quân số 2,276 quân nhân (tổ chức với 3 tiểu đoàn chiến đấu và 1 pháo đội súng cối) và cùng với Lữ Đoàn Nhảy Dù h́nh thành lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, hoạt động trên khắp 4 vùng chiến thuật của VNCH dưới quyền điều động trực tiếp của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

         Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù cũng là hai đơn vị bộ chiến duy nhất của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chỉ nhận lính và sĩ quan t́nh nguyện phục vụ trong binh chủng. Thủy Quân Lục Chiến có 13 toán tuyển mộ trên khắp lănh thổ miền Nam, và vào năm 1971 trung b́nh nhận khoảng 610 thanh niên t́nh nguyện gia nhập binh chủng hằng tháng, đủ để thay thế những tổn thất chiến trường và duy tŕ quân số khả dụng. Các cấp chỉ huy chiến đấu đều trưởng thành và thăng chức từ kinh nghiệm thực tế chiến trường. Các cố vấn TQLC Hoa Kỳ cũng bắt đầu trực tiếp tham gia chiến đấu với các đơn vị TQLC Việt Nam từ năm 1960, trước hẳn các đơn vị bộ chiến VNCH khác.

          Thiếu Tá Lê Nguyên Khang trở thành Chỉ Huy Trưởng binh chủng năm 1960, một chức vụ kéo dài đến tháng Năm 1972 khi ông đă lên đến chức trung tướng, trừ một khoảng thời gian 3 tháng sau chính biến 1963 khi ông bàn giao chức vụ lại cho Trung Tá Nguyễn Bá Liên để đi làm tùy viên quân sự ở Philippines. Trước Thiếu Tá Khang, binh chủng TQLC lần lượt được chỉ huy bởi Trung Tá Lê Quang Trọng (tháng 5/1955 đến tháng 1/1956), Thiếu Tá Phạm Văn Liễu ( tháng 1 đến tháng 8/1956), Đại Úy Bùi Phó Chí (tháng 8 đến tháng 10/1956), Thiếu Tá Lê Như Hùng (tháng 10/1956 đến tháng 6/1960). Đến ngày 1 tháng 8/1961 quân số Thủy Quân Lục Chiến lên đến 3,321 quân nhân với 4 tiểu đoàn chiến đấu, một pháo đội pháo binh và đại đội quân y.

          Binh chủng TQLC sau đó được mở rộng thành Lữ Đoàn TQLC vào ngày 1 tháng 1/1962 với việc thành lập Tiểu Đoàn 4 TQLC (1961), Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh (1962), Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ với các đại đội Trinh Sát, Vận Tải, Truyền Tin, Quân Y. Quân số binh chủng lên đến 6.149 quân nhân. Sau chính biến 1963 có thêm Tiểu Đoàn 5 TQLC (1964) và Tiểu Đoàn 6 TQLC (1966) cũng như Trung Tâm Huấn Luyện TQLC ở Rừng Cấm (Thủ Đức) được xây cất vào cuối năm 1963, dựa trên mô phỏng của Trung Tâm Huấn Luyện Tân Binh TQLC Hoa Kỳ ở Parris Island (North Carolina) với các huấn luyện viên đă theo học ở Căn Cứ Tuyển Mộ Tân Binh của TQLC Hoa Kỳ ở San Diego để duy tŕ tiêu chuẩn cao cho các hoạt động huấn luyện những tân binh t́nh nguyện.

         Do yêu cầu chiến thuật từ năm 1964 Lữ Đoàn TQLC cũng thành lập Chiến Đoàn A (Alpha hay An Dương Vương) và B (Bravo hay Bắc B́nh Vương) để chỉ huy các cuộc hành quân phối hợp. Đến ngày 1 tháng 7/1964 Lữ Đoàn TQLC có quân số 6,555 quân nhân, tổ chức thành 2 chiến đoàn với 5 tiểu đoàn chiến đấu, 1 tiểu đoàn pháo binh và Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ.

          Cuối năm 1964 do những yếu kém về t́nh báo và công tác yểm trợ hỏa lực của tỉnh Phước Tuy và Vùng 3 Chiến Thuật, Tiểu Đoàn 4 TQLC bị thiệt hại nặng trong trận đánh B́nh Giă đẫm máu trong tỉnh Phước Tuy khi đơn vị lọt vào trận địa phục kích của hai trung đoàn chủ lực của Sư Đoàn 9 CSBV đang trong giai đoạn h́nh thành được pháo binh (cối 82 ly, ĐKZ 57 ly) yểm trợ trong rừng cao su phía ngoài làng công giáo di cư B́nh Giă.
           Đơn vị thiệt hại nặng với 112 chết (bao gồm 29 sĩ quan), 71 bị thương và 13 mất tích. Tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và một đại đội trưởng tử trận, một đại đội trưởng bị thương nặng cùng 2 cố vấn và 2 quan sát viên TQLC Hoa Kỳ. Riêng Đại Úy Donald Cook, một trong 3 quan sát viên của Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ đồn trú ở Okinawa (Nhật Bản) đang tham quan chiến trường bị thương và bị bắt. Ông chết trong trại tù Cộng Sản khoảng cuối năm 1967 và được truy tặng huy chương Medal of Honor. Đây là trận đánh mở đầu giai đoạn leo thang chiến tranh ở miền Nam Việt Nam của Hà Nội với các cuộc tấn công ở cấp số trung đoàn sau khi Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh thay mặt Bộ Chính Trị đảng CSVN và Quân Ủy Trung Ương vào trực tiếp chỉ đạo chiến trường miền Nam.
           Ngày 5 tháng 1/1965 binh chủng TQLC chính thức tách ra khỏi quân chủng Hải Quân. Trong trận đánh Phụng Dư ở Bồng Sơn (B́nh Định) vào tháng Tư năm 1965, Tiểu Đoàn 2 TQLC đánh bật 10 đợt tấn công biển người kéo dài 5 giờ đồng hồ của một trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt thuộc Sư Đoàn 3 CSBV "Sao Vàng," khiến cộng quân phải gọi những người lính Cọp Biển của đơn vị này là nhũng "con trâu điên", khai sinh danh hiệu Trâu Điên của tiểu đoàn này cũng như khởi đầu việc đặt danh hiệu cho các tiểu đoàn c̣n lại. Do chiến tích lừng danh này, Tiểu Đoàn 2 TQLC được ân thưởng Presidential Unit Citation của Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson, đơn vị đầu tiên của binh chủng TQLC Việt Nam.
       Tháng 6 năm 1966 đoàn cố vấn TQLC Hoa Kỳ đề nghị kế hoạch mở rộng binh chủng TQLC Việt Nam, nâng cấp từ lữ đoàn lên sư đoàn vào năm 1970. Trong thập niên 1960 các tiểu đoàn TQLC (đặc biệt là Chiến Đoàn B, sau thành Lữ Đoàn B) cũng thường xuyên hoạt động trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long phối hợp với các đơn vị bạn cũng như Lực Lượng Cơ Động Sông Ng̣i (Mobile Riverine Force) của quân đội Hoa Kỳ, gây nhiều cảm phục cho các quân nhân Hoa Kỳ.
        Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, Lữ Đoàn TQLC là nỗ lực chính giải tỏa hướng đông-bắc thủ đô Saigon trong khu vực B́nh Ḥa, G̣ Vấp, và B́nh Lợi. Là một trong các nỗ lực chính giải tỏa Thành Nội Huế bị cộng quân chiếm giữ, Chiến Đoàn A TQLC đă tái chiếm lại kỳ đài ở Đại Nội (nhưng theo yêu cầu của Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, đă nhường nhiệm vụ thượng kỳ VNCH lại cho Đại Úy Phạm Văn Đính của Sư Đoàn 1 BB). Với chiến công này, Chiến Đoàn A cùng Tiểu Đoàn 1 và 4 TQLC đă được ân thưởng Presidential Unit Citation của Tổng Thống Johnson trong khi Tiểu Đoàn 5 TQLC được ân thưởng Valorous Unit Award.
         Ngày 1 tháng 10/1968, kỷ niệm 14 năm thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được h́nh thành nhưng chưa đầy đủ sức mạnh chiến đấu. Lúc đó sư đoàn được h́nh thành với Lữ Đoàn A (tiền thân của Lữ Đoàn 147) và B (tiền thân của Lữ Đoàn 258) để chỉ huy 6 tiểu đoàn bộ chiến cùng một tiểu đoàn pháo binh. Các đơn vị yểm trợ như Truyền Tin, Công Binh, Quân Y đều nâng cấp từ đại đội lên tiểu đoàn.
         Sau Tết Mậu Thân 1968, binh chủng thành lập thêm Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC (tháng 4/1969), Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh TQLC (tháng 11/1969) và Tiểu Đoàn 7 TQLC (tháng 12/1969). Trong một trận đánh ác liệt gần Biên Hoà trong tháng Hai năm 1969, Tiểu Đoàn 5 TQLC được ân thưởng huy chương U.S. Navy Unit Commendation. Để thay thế Lực Lượng Cơ-Động Sông Ng̣i của Hoa Kỳ bắt đầu triệt thoái, Lữ Đoàn B TQLC kết hợp cùng Hải Quân Vùng 4 Sông Ng̣i thành Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 với bộ chỉ huy ở căn cứ Đồng Tâm gần Mỹ Tho, hành quân thường trực từ giữa năm 1969 ở khu vực U Minh-Chương Thiện và Định Tường-Kiến Ḥa.
       Khi này quân số sư đoàn đă lên đến 9,300 quân nhân trong khi Đoàn Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ có 47 sĩ quan cố vấn và 9 hạ sĩ quan chuyên môn. Mỗi tiểu đoàn TQLC khi này có hai sĩ quan cố vấn do các tiểu đoàn chiến đấu TQLC thường phân chia thành 2 nhóm chiến đấu Alpha và Bravo do tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó chỉ huy. Vào giai đoạn này, các cố vấn TQLC Hoa Kỳ mặc dầu đă từng chiến đấu ở Quân Khu 1 với các đơn vị TQLC Hoa Kỳ trước đây, thường đảm nhiệm chủ yếu việc phối hợp yểm trợ hỏa lực và tiếp vận v́ về kinh nghiệm chiến trường của họ th́ không thể nào bù được với các cấp chỉ huy chiến đấu của TQLC Việt Nam.
          Tiểu Đoàn 9 TQLC và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh TQLC được thành lập trong năm 1970 và Sư Đoàn TQLC với quân số và trang bị đầy đủ được tái tổ chức với 3 lữ đoàn chiến đấu mang số 147, 258 và 369 (thành lập cuối năm 1969). Mỗi lữ đoàn chỉ huy 3 tiểu đoàn chiến đấu (được gom lại thành số hiệu lữ đoàn) và một tiểu đoàn pháo binh yểm trợ nhưng trên thực tế chiến trường cấu trúc các lữ đoàn thường thay đổi tùy theo nhu cầu chiến thuật. Với quân số đầy đủ trên 900 người, tiểu đoàn chiến đấu TQLC có biên chế cao nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.

         Vào tháng 5/1970 Lữ Đoàn 258 TQLC với Tiểu Đoàn 1, 4 và 5 TQLC và một pháo đội của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC tham gia cuộc hành quân Cửu Long của Quân Đoàn 4 vượt biên sang Cam Bốt đánh phá các căn cứ bí mật của Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Neak Lương, cũng như tiến hành chiến dịch Trần Hưng Đạo yểm trợ hồi-cư Việt Kiều sinh sống ở Cam Bốt đang bị kỳ thị và khủng bố. Sau đó Lữ Đoàn 147 và 369 TQLC với Tiểu Đoàn 2, 3, 6, 7 và 8 TQLC cũng tham gia.

          Đầu năm 1971 Sư Đoàn TQLC tham gia chiến dịch Hạ Lào (Hành Quân Lam Sơn 719) khởi đầu là trừ bị chiến dịch với hai lữ đoàn 147 và 258). Sau khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù và Liên Đoàn 1 BĐQ bị thiệt hại nặng và Sư Đoàn 1 BB được giao nhiệm vụ thay thế Nhảy Dù để vào mục tiêu Tchepone th́ Lữ Đoàn 147 và 258 TQLC vào thay Sư Đoàn 1 BB để bảo vệ mặt nam của cuộc tiến quân. Trong khi đó, Lữ Đoàn 369 TQLC được di chuyển từ Saigon ra Khe Sanh làm đơn vị trừ bị. Đại Tá Bùi Thế Lân, tư lệnh phó Sư Đoàn TQLC chỉ huy cuộc hành quân cấp sư đoàn đầu tiên trong lịch sử binh chủng.
         Ngày 2 tháng 3/1971 Lữ Đoàn 147 TQLC với Tiểu Đoàn 2, 4 và 7 TQLC và một pháo đội hỗn hợp 105/155 ly của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC xuống căn cứ Delta. Sau đó Lữ Đoàn 258 TQLC với Tiểu Đoàn 1, 3 và 8 TQLC và pháo đội của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh TQLC xuống căn cứ Hotel trên dăy núi Cô Rốc ngay biên giới Việt-Lào. Trong giai đoạn triệt thoái đẫm máu ra khỏi Hạ Lào, hai căn cứ Delta và Hotel của TQLC bắt đầu hứng trọn gánh nặng phản công truy kích của quân Bắc Việt từ hướng tây cũng như cuộc đột kích theo kiểu "vu hồi" của Sư Đoàn 324B từ thung lũng A Shau di chuyển lên từ hướng nam. Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 803 thuộc Sư Đoàn 324B Bắc Việt tung ra nhiều đợt tấn công biển-người ghê gớm. Họ được yểm trợ bởi hàng loạt đợt pháo kích nặng và 10 chiến xa PT-76 trang bị súng phun lửa. Phía bên này, Lữ Đoàn 147 TQLC đă chống trả hết sức anh dũng và kịch liệt, nhưng cuối cùng lữ đoàn cũng phải mở đường máu rút lui ở căn cứ Delta trong đêm 22 tháng 3/1971 sau khi tiêu diệt 3 chiến xa địch quân, cạn dần đạn dược và tiếp tế trong khi hỏa lực pháo binh và pḥng không ác liệt của Bắc quân đă khiến các hoạt động không yểm, tiếp tế và tải thương không thực hiện được.
       Ngoài việc vào sát ṿng đai pḥng thủ căn cứ Delta, bộ đội Sư Đoàn 324B cũng đă xâm nhập vào khu vực triệt thoái của lính Thủy Quân Lục Chiến ở giữa 2 căn cứ Delta và Hotel. Dù đă bị thương, ba viên sĩ quan tiểu đoàn trưởng (đặc biệt là Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu Đoàn 2 TQLC) cũng như các cấp chỉ huy dưới quyền đă duy tŕ đội ngũ và chỉ đạo cuộc rút quân hữu hiệu trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Theo các cố vấn TQLC Hoa Kỳ, dù bị thiệt hại khá nặng, Lữ Đoàn 147 TQLC đă trong t́nh trạng sẵn sàng chiến đấu 24 giờ sau khi về đến Khe Sanh.
      Các đơn vị pháo binh Hoa Kỳ và VNCH cũng đă triệt thoái khỏi khu vực biên giới Lào-Việt, ngoài tầm bắn yểm trợ. Ưu tiên của các hoạt động không yểm tập trung vào việc triệt thoái Sư Đoàn 1 BB và lực lượng đặc nhiệm Nhảy Dù-Thiết Kỵ dọc theo Quốc Lộ 9. Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm (Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và là người chỉ huy tổng quát cuộc hành quân Lam Sơn 719) sau những hiềm khích cá nhân với tướng Lê Nguyên Khang (Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC) đă không chấp thuận việc triệt thoái của lính Cọp Biển nhưng đ̣i hỏi việc di tản pháo đội pháo binh ra khỏi căn cứ Delta trong hoàn cảnh trực thăng không thể nào đáp xuống căn cứ một cách an toàn.
   Tướng Lăm đă phán một câu sau những thiệt hại khá nặng của BĐQ, Nhảy Dù, Thiết Giáp và Sư Đoàn 1 BB, đến lượt TQLC phải chấp nhận thiệt hại để bảo vệ cho nỗ lực triệt thoái theo Quốc Lộ 9 (theo tường thuật của cố vấn TQLC Hoa Kỳ). Lữ Đoàn 258 TQLC sau đó cũng triệt thoái khỏi căn cứ Hotel vào ngày 25 tháng 3/1971 bằng các trực thăng của lực lượng đặc nhiệm TQLC Hoa Kỳ đang có mặt trên Hạm Đội 7 ở ngoài khơi Việt Nam sau những bàn luận giữa Đại Tá Lân và Đại Tá Francis W. Tief, cố vấn trưởng và được sự đồng ư của tướng Khang ở Saigon mà không thông qua tướng Lăm. Tướng Lăm đă nổi giận và yêu cầu gởi hai toán trinh sát TQLC xuống đỉnh núi Cô Rốc để thăm ḍ các lực lượng truy đuổi của Bắc quân nhưng không biết Đại Tá Bùi Thế Lân có thi hành lệnh này hay không v́ đó là một nhiệm vụ cảm tử không thành (theo tường thuật của cố vấn TQLC Hoa Kỳ).
      Mặc dầu thiệt hại nhẹ hơn các đơn vị bạn như Nhảy Dù, BĐQ, Sư Đoàn 1 BB và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh, sau 20 ngày tham gia vào giai đoạn cuối của chiến dịch Hạ Lào, Sư Đoàn TQLC thiệt hại 335 chết, 768 bị thương và 37 mất tích trong khi gây thiệt hại cho trên 2,000 bộ đội Bắc Việt với xác chết nằm la liệt xung quanh hai căn cứ Delta và Hotel. Thủy Quân Lục Chiến tịch thu hay phá hủy trên 800 vũ khí và 3 chiến xa PT-76 . Chấn động tinh thần mạnh nhất là những đồng đội hy sinh và bị thương nặng không thể di tản phải nằm lại trên đất Lào. Tuy vậy Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, tư lệnh chiến dịch đă nói, "Sao TQLC nó về nhiều thế nhỉ."

        Từ năm 1960 khi CSBV bắt đầu tiến hành chiến tranh ở miền Nam, danh tiếng binh chủng TQLC bắt đầu vang rộng khắp nơi qua các trận đánh nổi tiếng như Đầm Dơi, Đổ Xá, Ba Gia, B́nh Giả, Đức Cơ, Phụng Dư, Rạch Ruộng cũng như các chiến dịch lớn như Sóng T́nh Thương, Tết Mậu Thân ở thủ đô Saigon-Chợ Lớn và Cố Đô Huế, Cửu Long sang Cambodia, Lam Sơn 719 sang Hạ Lào.

       Được sự trợ giúp tận tâm của các cố vấn TQLC Hoa Kỳ đồng kham cộng khổ ở chiến trường, binh chủng TQLC Việt Nam trưởng thành nhanh chóng qua những tháng năm khói lửa trở thành một đại đơn vị lừng danh chiến trận với tổ chức chặc chẻ, huấn luyện thuần thục, chỉ huy tài ba, tinh thần chiến đấu can đảm với quân số đầy đủ và mạnh mẽ nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.

Tuy nhiên đại đơn vị này cũng là nạn nhân không may của cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Do tướng Lê Nguyên Khang là bạn thân thiết của tướng Kỳ nên sau khi tướng Thiệu nắm được quyền lực, Sư Đoàn TQLC đă không được sử dụng đúng chỗ và quan tâm chu đáo như Sư Đoàn Nhảy Dù do luôn là mối lo ngại về đảo chính của vị lănh đạo quốc gia đa-nghi này. Các cấp chỉ huy tài ba cấp lữ đoàn của binh chủng như Nguyễn Thành Yên, Tôn Thất Soạn, Hoàng Tích Thông, Nguyễn Thành Trí, Phạm Văn Chung, Ngô Văn Định không có cơ hội lên Tướng cho dù tạo nhiều chiến tích lừng danh.

 

 

 

                           

 

E-mail the Webmaster with questions or comments about the Web site