|
|
Hổ nhớ rừng
“Chim xa rừng, còn thương cây nhớ cội, Người xa người , tội lắm người ơi”
Ông Đạt có thói quen, ngồi nhâm nhi tách trà mỗi buổi sáng và đọc báo để xem tin tức hàng ngày. Ông đặt tờ báo xuống bàn, nhìn lại căn nhà với bao “Dấu chân kỷ niệm” của mái ấm gia đình, ông khẽ thở dài, buồn bã…… Hơn một năm qua, bà Đạt đã bỏ ông mà đi, bà thảnh thơi ra đi đến một miền miên viễn khác, bỏ lại một mình ông cô đơn trong căn nhà quạnh hiu…..Con cái đã trưởng thành, chúng có cuộc sống riêng tư và sinh hoạt của mỗi gia đình. Ông không muốn làm phiền bọn trẻ, mặc dù con cái Ông vẫn muốn đưa Bố về ở chung, để tiện bề chăm sóc…………. “Mất một người thân, mắt sầu gợn sóng, Mất một cuộc tình ray rứt nhiều năm, Nhưng mất “Quê Hương”, ta chẳng còn gì để đứng…” Do đó, nỗi buồn của ông càng lan tỏa hơn, mỗi độ Tháng Tư về, một ngày đáng nhớ nhất mà ông không thể nói thành lời, viết thành câu ( 30/4/75). “ Từ đây lịch sử sang trang, Quân, dân, cán, chính, tan hoang cửa nhà….” Ôi đau thương của Quá khứ như còn đâu đây, thoảng trên con hẻm về khuya khua đôi nạng gỗ. Trong cơn lốc chiến tranh, ông, bạn bè và đồng đội của ông đã bị cuốn hút vào vòng xoáy…. tàn bạo, và nghiệt ngã…. Có những anh hùng trai trẻ đã nằm xuống cho Tổ Quốc, những người còn lại thì mang đầy thương tích, nếu không là những thương tích trên thể xác căng đầy nhựa sống, thì cũng là những thương tích trong tâm hồn, gây nhức nhối con tim biết suy nghĩ. Thương tích thể xác có thể lành lặn theo thời gian, còn thương tích trong tâm hồn cả đời rướm máu. Ông cũng có những nỗi đau riêng khi hồi tưởng lại chặng đường đã qua trong cuộc chiến… Những người bạn thân thiết nhất và những đồng đội đã cùng ông chiến đấu bên chiến hào đã lần lượt “ra đi”. “Ngày mai trong đám hành quân ấy, Có kẻ ra đi chẳng trở về!!!!”
Xa xa, Ông nghe như có tiếng đều nhịp bước của những tháng ngày “ thao trường đổ mồ hôi; chiến trường bớt đổ máu”. Những địa danh quen thuộc mà đã một thời Ông và đồng đội dẵm mòn trên khắp nẻo đường đất nước, như hiển hiện trước mắt Ông, nào Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn, cho đến Kontum anh dũng, Pleime, Đắc Tô kiêu hùng …. Những trận đánh lẫy lừng như còn vang vọng đâu đây “ Tiếng đại bác nổ vang trời”, những tiếng hô “xung phong” mạnh mẽ của những trái tim đầy nhiệt huyết; nhất là trận đánh tái chiếm Quảng Trị, đã đưa tên tuổi Binh Chủng của Ông ngày một lớn mạnh, bàn tay nào đã giương cao ngon “cờ vàng 3 sọc đỏ” trên cổ thành Đinh Công Tráng ngày 15 tháng 9 năm 1972, nơi bạn bè của Ông, chiến hữu của Ông đã đổ máu xuống để giành lại từng tấc đất quê hương, và đổi lấy hai chữ “Thanh Bình”; họ đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quý giá!!! Trái lại, bọn lãnh tụ cộng sản khát máu muốn đem chủ thuyết ngoại lai về nhuộm đỏ Miền Nam ( dù phải trả giá đắt về thiệt hại nhân mạng), âm mưu chiếm đoạt Miền Nam cho bằng được, vì bọn chúng biết rằng nếu để cho Miền Nam tự do phát triển về kinh tế thì 30 năm sau sẽ là một Miền Nam phồn thịnh, giầu có, trình độ dân trí cao sẽ vượt quá xã hội ngu dốt, nghèo nàn của Miền Bắc xã hội chủ nghĩa…… Ông ngậm ngùi và chua xót cho những vong hồn Tử Sĩ, họ cũng như Ông, đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho Tổ Quốc để bảo vệ Miền Nam thân yêu…… Hai mươi mốt năm chinh chiến để đổi lấy hai chữ “Hòa Bình”, những thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Họ đã nằm xuống cho cuộc chiến quê hương, Ông bàng hoàng buông súng và lầm lũi kiếp sống tha hương!!! Để rồi còn lại gì sau chiến tranh???? Hồi tưởng lại quá khứ, ông không đủ nước mắt để khóc cho những đau thương của dân tộc: - Những người lính của QLVNCH nói chung, và những người lính TQLC nói riêng, không phải là những người chiến bại trước kể thù, bởi vì ngoài chiến trường xa, họ vẫn còn đang hăng say giết giặc, thì bất ngờ: - Lệnh “đầu hàng” là lệnh “ Tủi nhục ngàn thu” Biết bao bạn bè và đồng đội của Ông chịu cảnh lưu vong trong lòng dân tộc và chịu cảnh lưu đầy trên chính quê hương của mình, và còn biết bao nhiêu ngàn Thương Phế Binh khác đang sống cuộc đời tàn phế, cơ hàn, đói khổ nơi quê nhà, bên những túp lều không đủ che nắng, trú mưa…. Ông không dám mơ ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày đen tối hôm nay. Nỗi xót xa tình cảm nào rồi cũng phôi pha theo lớp bụi thời gian, nhưng “ Nỗi đau mất nước” vẫn còn hiện hữu trong tim óc Ông, không bao giờ phai nhạt, nó như một vết thương đã thành sẹo, những tình tự quê hương đã một thời gắn bó. “ Tự thuở lưu đầy, biệt cố hương! Tâm tư trĩu nặng, những buồn thương, Thời gian luống tưởng … vơi sầu nhớ! Năm tháng nào ngờ, mãi vấn vương Chao ơi! cái thuở thanh bình ấy, Rộn tiếng cười vui, vạn nẻo đường…” ( Thơ Thanh Tâm Hàn) Ông cũng như tôi và hàng triệu người Việt Nam đang sống lưu lạc nơi xứ người, lòng vẫn khắc khoải vọng về cố hương, nơi mà cả một quá khứ “ Bi, Hùng” đã diễn ra. “Rũ áo chinh nhân, cõi lòng tan nát, Thất thểu đường đời, hồn lạc trùng khơi!!!!”
( Kính tặng NT Đồ Sơn, nhân mùa Quốc Hận 2009)
|
|
|